Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Truy tiến »»
(講, kō): tập đoàn kết chúng tập trung lại với nhau để đath thành mục đích về mặt tôn giáo, kinh tế cũng như xã giao, nên mới lấy tên là Giảng. Nếu truy tìm nguyên gốc từ Giảng này, ta thấy nó vốn phát xuất từ dụng ngữ của Phật Giáo. Có nghĩa rằng ban đầu nó là hội nghiên cứu về việc thuyết giảng kinh điển Phật Giáo của những Tăng sĩ có học thức, hay là pháp hội Phật sự làm cho uyên nguyên việc giảng đọc kinh điển, chấp hành nghi lễ Phật Giáo. Từ hội Pháp Hoa Giảng (法華講), Duy Ma Giảng (維摩講), Thắng Man Giảng (勝鬘講), cho đến Tối Thắng Giảng (最勝講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Đà La Ni Giảng (陀羅尼講), Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), v.v., đều phát xuất từ đây. Nguồn khế cơ phát sanh hội này vốn có từ thời đại sơ truyền của Phật Giáo. Sự du nhập của Phật Giáo bắt đầu bằng những vật tượng trưng như tượng Phật, phan cái, kinh điển, v.v.; nhưng đương nhiên sự thọ dung đúng nhất vẫn là việc lý giải về giáo nghĩa cũng như nghi lễ. Nỗ lực này được thể hiện qua bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ (三經義疏) do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) biên soạn vào đầu thế kỷ thứ 7. Đương nhiên cũng có nghi vấn cho rằng đây không phải là trước tác của Thái Tử; nhưng nếu ta xét về điểm thành lập của triều đại Suy Cổ (推古, Suiko), thì phần lớn đều nhất trí. Như vậy việc giảng cứu Phật điển ban đầu là trung tâm hoạt động của tự viện, rồi truyền thống này được bảo trì một thời gian lâu dài; và đến thế kỷ thứ 8 dưới triều đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) thì nó đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên, việc giảng nghĩa những kinh điển Phật Giáo vốn có tính giáo học sâu xa thì lại được tiến hành song song với nghi lễ tôn giáo. Cho nên, nghi lễ còn được gọi là Pháp Hội. Chính các tổ chức như Thích Ca Hội (釋迦會) nhằm lễ tán thánh đức của Phật, Dược Sư Hội (藥師會) nhằm tán thán công đức của Phật Dược Sư; Di Lặc Hội (彌勒會) nhằm cầu nguyện Phật Di Lặc hạ sanh, v.v., đều phát xuất từ đây. Ba bộ kinh hộ quốc quan trọng gồm Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Pháp Hoa Kinh (法華經) vốn được xem như là những kinh điển hộ trì quốc gia, tất yếu phải được sử dụng tại các pháp hội ở những ngôi chùa quan, chùa lớn, chùa có định ngạch. Từ đó xuất hiện Tối Thắng Giảng Hội (最勝講會), Nhân Vương Giảng Hội (仁王講會) và Pháp Hoa Giảng Hội (法華講會). Trên cơ sở của ba hội chính này, các hội khác lần lượt ra đời như Duy Ma Giảng Hội (維摩講會), Thắng Man Giảng Hội (勝鬘講會), v.v., với khá nhiều hình thức và nội dung phong phú. Nhưng mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 9 dưới thời Bình An, việc biên tập và quy định hình thức giảng nhất định mới hình thành. Vào khoảng đầu thời Bình An, tín ngưỡng đáng chú ý nhất về Pháp Hoa được hoằng truyền từ trong tầng lớp Tăng Ni tại các tự viện cho đến xã hội thế tục bên ngoài, từ tầng lớp quý tộc trong cung đình cho đến lớp quan binh, và lan truyền đến tận dân chúng bên ngoài, trở nên rất sùng tín. Đặc biệt là các hoạt động của những người trì Kinh Pháp Hoa vốn được xem như là những người truyền giáo cuồng tín, thì quá nhiều. Ta có thể tìm thấy những hình thức hoạt động như thế này thông qua bộ Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記) cũng như Bản Triều Pháp Hoa Nghiệm Ký (本朝法華驗記), v.v. Trong đó, hội Pháp Hoa Bát Giảng (法華八講) là thịnh hành nhất từ trong cung nội cho đến ngoài dân dã. Hội này được Cần Tháo (勤操, Gonzō) ở Thạch Uyên Tự (石淵寺) vùng Đại Hòa (大和, Yamato) khởi xướng vào năm 796, sau đến đầu thế kỷ thứ 9 mới thịnh hành ngoài dân gian. Đây là pháp hội lấy 8 quyển Kinh Pháp Hoa, mỗi ngày sáng tối hai thời đọc tụng cúng dường 2 quyển, và kéo dài trong vòng 4 ngày. Ban đầu, pháp hội này được tiến hành tại Thạch Uyên Tự, nhưng dần dần người dân thường cũng tổ chức pháp hội này tại cung đình cũng như dinh phủ quan, với động cơ nhằm cúng dường Truy tiến cho linh hồn người chết, hay cầu sống lâu trường thọ, hoặc kỳ nguyện vãng sanh. Với đà thịnh hành của hội Pháp Hoa Giảng này, nó đã tạo ảnh hưởng rất lớn cho các hội khác ra đời. Một số hội như Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), Thích Ca Giảng (釋迦講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Tối Thắng Giảng (最勝講), v.v., lần lượt bỏ đi tên gọi pháp hội mà lấy tên Giảng. Thuận theo xu hướng thời đại, các tổ chức như A Di Đà Giảng (阿彌陀講), Bồ Đề Giảng (菩提講), Vãng Sanh Giảng (徃生講), Thập Nhị Bồ Tát Lai Nghênh Giảng (十二菩薩來迎講), Địa Tạng Giảng (地藏講), Thập Trai Giảng (十齋講), v.v., cũng liên tiếp xuất hiện. Khi những tổ chức này được phổ cập hóa, thẩm thấu vào dân gian thì chúng có nhiều cơ hội tiếp xúc với tín ngưỡng dân gian; cho nên các tập đoàn tín ngưỡng địa phương vốn dựa trên cơ sở sùng bái tự nhiên như núi, sông, nước, đá, cây, v.v., được gọi là Sơn Thần Giảng (山神講), Thủy Thần Giảng (水神講), Thạch Thần Giảng (石神講). Còn những tập đoàn tế tự, sùng bái thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng, mưa, gió, sấm, sét, v.v., có tên gọi là Nhật Đãi Giảng (日待講), Nguyệt Đãi Giảng (月待講), Long Thần Giảng (龍神講), Phong Thần Lôi Thần Giảng (風神雷神講). Hơn nữa, tư tưởng Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, Honjisuijaku) chính là diểm trọng yếu đã tạo khế cơ cho việc thế tục hóa cũng như dân gian hóa Phật Giáo. Tại Nhật Bản, trong các lễ tế tự ở những đền thờ Thần Xã, truyền thống từ ngàn xưa vẫn được duy trì, và thể chế tượng trưng mang tính tôn giáo của tập đoàn dân tộc được hình thành. Có nghĩa rằng tập đoàn tế tự được cấu thành với hạt nhân trung tâm là đền thờ Thần Xã để phát huy cơ năng tôn giáo. Nguyên nhân các tổ chức tế tự như thế này lấy tên Giảng của Phật Giáo, vốn phát xuất từ trào lưu thời đại của Thần Phật Tập Hợp. Vì thế trong các đền thờ Thần Xã được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, ta thấy có xuát hiện bóng dáng của Phật Giáo. Phần lớn các Thần sự đều được tổ chức dưới hình thức Giảng, và đó cũng là khế cơ nảy sinh mối giao lưu Thần Phật. Cho nên các tổ chức như Thị Thần Giảng (氏神講), Trấn Thủ Giảng (鎭守講), Quyền Hiện Giảng (權現講), Cung Tòa Giảng (宮座講), cho đến Xuân Nhật Giảng (春日講), Trú Cát Giảng (住吉講), Bát Phan Giảng (八幡講), Hùng Dã Giảng (熊野講), Y Thế Giảng (伊勢講), Tam Sơn Giảng (三山講), Tam Xã Giảng (三社講), v.v., dần dần xuất hiện trong thần đạo. Đến cuối thời Trung Đại, hoạt động sinh sản của con người phân hóa, phương hướng tạo nên cơ cấu tổ chức Giảng cũng thay đổi với lý do không những chỉ vì động cơ tín ngưỡng tôn giáo, mà còn vì lý do xã hội cũng như kinh tế. Đến thời Trung Đại, tại các tự viện có các hội như Lại Mẫu Tử Giảng (賴母子講) nhằm dung thông lẫn nhau tiền vàng, vật phẩm giữa Tăng Ni; Quân Vương Giảng (君王講) của Mộc Địa Sư (木地師), Hoang Thần Giảng (荒神講), v.v. Khuynh hướng này được kéo dài cho đến thời Cận Đại, phát huy thành nhiều hình thức Giảng mới như Điền Thần Giảng (田神講) của nông dân, Sơn Thần Giảng (山神講) của những người làm nghề sơn lâm, Hải Thần Giảng (海神講), Long Cung Giảng (龍宮講), Huệ Mỹ Tu Giảng (惠美須講) nhằm cầu nguyện cho được nhiều cá và thuận buồm xuôi gió; thêm vào đó, còn có rất nhiều tổ chức Giảng ở thành phố. Từ thời Trung Đại đến Cận Đại, biển với đất liền phát triển giao thông mạnh mẽ, người ta đi du lịch các nơi trở nên dễ dàng hơn, và mọi người có nhiều cơ hội trở về cố hương mình. Đặc biệt việc tham bái các thánh địa cũng như hành hương những ngôi già lam, đền miếu, càng lúc càng hưng thịnh; chính vì lẽ đó, tổ chức Tham Nghệ Giảng (參詣講) được hình thành. Tỷ dụ như Thiện Quang Tự Giảng (善光寺講), Thành Điền Giảng (成田講), Tam Phong Giảng (三峰講), Đại Sơn Giảng (大山講), Y Thế Giảng (伊勢講), Xuất Vân Giảng (出雲講), Bạch Sơn Giảng (白山講), v.v.
(追薦): còn viết là truy thiện (追善), truy phước (追福), truy tu (追修), truy nghiêm (追嚴), v.v. Truy tiến nghĩa là tiến cúng cầu phước cho người quá vãng. Truy thiện lại có nghĩa là vì người quá vãng mà tiến hành những việc thiện như tụng kinh, bái sám, cầu vong linh siêu độ. Cho nên, Truy tiến là điển ngữ, còn truy thiện là từ thông tục. Như trong Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh Sớ (佛說盂蘭盆經疏, Taishō Vol. 39, No. 1792) quyển Thượng, do Sa Môn Tông Mật (宗密, 780-841) thuật, có câu: “Toại sưu sách Thánh hiền chi giáo, kiền cầu Truy tiến chi phương (逐搜索聖賢之敎、虔求追薦之方, bèn tìm tòi lời dạy Thánh hiền, khẩn cầu phương cách cầu siêu).” Hay trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 60, có đoạn: “Trại nội dương khởi trường phan, thỉnh phụ cận tự viện tăng chúng thượng sơn tố công đức, Truy tiến Triều Thiên Vương (寨內揚起長旛、請附近寺院僧眾上山做功德、追薦晁天王, trong làng dựng lên là phan dài, cung thỉnh tăng chúng ở tự viện lân cận lên núi làm công đức, cầu siêu độ cho Triều Thiên Vương).”
(修齋): tập trung tu sĩ Phật Giáo hay đạo sĩ của Đạo Giáo để cúng dường cơm chay. Như trong bài thơ Đăng Linh Sơn Thủy Các Di Điếu Giả (登靈山水閣貽釣者) của thi nhân Đỗ Tuần Hạc (杜荀鶴, 846-904) nhà Đường có câu: “Giang thượng kiến tăng thùy thị liễu, tu trai bổ nạp nhật lao thân (江上見僧誰是了、修齋補衲日勞身, trên sông gặp tăng là ai nhỉ, cúng chay lão nạp bớt nhọc thân).” Hay trong kịch bản Đào Hoa Phiến (桃花扇), phần Nhập Đạo (入道), của Khổng Thượng Nhiệm (孔尚任, 1648-1718) nhà Thanh có đoạn: “Quảng diên đạo chúng, đại kiến kinh đàn, yếu dữ tiên đế tu trai Truy tiến (廣延道眾、大建經壇、要與先帝修齋追薦, rước khắp các đạo sĩ, kiến lập đàn tràng lớn, chủ yếu dâng cúng cỗ chay để cầu siêu độ cho tiên đế).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 1 cũng có đoạn: “Giác Hoàng mẫn Diệm Khẩu chi đồ, sơ linh phụng hộc; Lương Đế cảm thần tăng chi mộng, toại khải tu trai (覺皇憫燄口之徒、初令奉斛、梁帝感神僧之夢、遂啟修齋, Giác Hoàng thương Diệm Khẩu [miệng bốc lửa] muôn loài, mới bày hộc thực; Lương Đế cảm thần tăng ứng mộng, bèn cúng cỗ chay).” Hoặc như trong Phật Thuyết Dự Tu Thập Vương Sanh Thất Kinh (佛說預修十王生七經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 21) lại có đoạn: “Nhất thân Lục Đạo khổ mang mang, Thập Ác Tam Đồ bất dị đương, nỗ lực tu trai công đức cụ, hằng sa chư tội tự tiêu vong (一身六道苦茫茫、十惡三塗不易當、努力修齋功德具、恆沙諸罪自銷亡, một thân sáu nẻo khổ mênh mang, mười ác ba đường khó thoát nàn, tận lực cúng chay công đức đủ, hằng sa tội chướng tự tiêu vong).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập