"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Trường Giác »»

(高野山, Kōyasan): linh địa của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, được bao bọc bởi ngọn núi cao trên dưới 1000 mét, nằm phía đông bắc Wakayama-ken (和歌山縣), tọa lạc tại Kōya-chō (高野町), Ito-gun (伊都郡). Vào năm 816 (niên hiệu Hoằng Nhân [弘仁] thứ 7), Không Hải Đại Sư (空海大師, Kūkai Daishi) thọ ân tứ của triều đình, lấy nơi đây làm đất nhập định cho bản thân mình và sáng lập ra ngôi Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji), ngôi chùa trung tâm của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản. Cao Dã Sơn còn là tên gọi thông thường của Kim Cang Phong Tự. Không Hải Đại Sư đã nhập diệt tại thánh địa này. Ngôi già lam được hình thành theo dạng thức độc đáo của Mật Giáo, phối trí ở hậu phương đông tây lấy Giảng Đường và Trung Môn làm trục, có ngôi Đại Tháp (tức Căn Bổn Đại Tháp) và Tây Tháp, tượng trưng cho vũ trụ theo hai bộ Thai Tạng Giới (胎藏界, Taizōkai) và Kim Cang Giới (金剛界, Kongōkai). Sau khi Không Hải qua đời, thánh địa này đi đến tình trạng suy vong vì quá cách xa với kinh đô; nhưng từ khoảng giữa thế kỷ thứ 10 trở đi, tín ngưỡng cho rằng Không Hải chỉ nhập định thôi, vẫn còn sống và cứu độ chúng sanh, bắt đầu xuất hiện, cho nên tầng lớp quý tộc cũng như hoàng tộc liên tục lên núi tham bái, nhờ vậy nơi đây hưng thịnh trở lại. Vào khoảng đầu thế ký 15, nhờ sự xuất hiện của các bậc học tượng như Hựu Khoái (宥快, Yūkai), Trường Giác (長覺, Chōkaku), v.v., giáo học của Cao Dã Sơn được hình thành có hệ thống và truyền thống đó vẫn được kế thừa cho đến ngày nay. Vào năm 1872 (niên hiệu Minh Trị [明治] thứ 5), luật cấm không cho người nữ lên núi được giải bỏ, dần dần các cư sĩ tại gia lên núi lập nghiệp. Hiện tại nơi đây hình thành một thị trấn tên Môn Tiền Đinh (門前町, Monzen-machi) có 117 ngôi tự viện, các cơ quan giáo dục như trường Đại Học, Trung Học và rất nhiều hiệu buôn. Mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu người đến tham bái thánh địa này.
(宥快, Yūkai, 1345-1416): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, húy là Hiền Vinh (賢榮), Thoại Nghiêm (瑞嚴), Hựu Khoái (宥快); hiệu là Tể Tướng Phòng (宰相房), Tánh Nghiêm Phòng (性嚴房); xuất thân vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, thuộc Kyoto); con của Tả Thiếu Tướng Đằng Nguyên Thật Quang (左少將藤原實光). Ông theo xuất gia với Vinh Trí (榮智) ở Tá Cửu Gian Tự (佐久間寺), vùng Thường Lục (常陸, Hitachi). Sau ông theo hầu Tín Hoằng (信弘) ở Bảo Tánh Viện (寶性院) trên Cao Dã Sơn, học về Sự Tướng, Giáo Tướng cũng như Tất Đàm (悉曇), rồi kế thừa các dòng Trung Viện (中院), Tam Bảo Viện (三寶院), Tây Viện (西院) và Trì Minh Viện (持明院). Năm 1374, ông làm trú trì Bảo Tánh Viện; đến năm sau thì trước tác bộ Bảo Kính Sao (寶鏡抄) để phê phán Dòng Lập Xuyên (立川流). Vào năm 1375, ông theo học pháp với Hưng Nhã (興雅) ở An Tường Tự (安祥寺); đến năm 1406 thì giao Bảo Tánh Viện lại cho đệ tử Thành Hùng (成雄) và lui về ẩn cư tại Thiện Tập Viện (善集院). Ông rất tinh thông về Giáo Tướng, tự xưng là Bảo Môn Phái (寶門派), cùng với Thọ Môn Phái (壽門派) của Trường Giác (長覺), hình thành nên hệ thống giáo học của Cao Dã Sơn. Đệ tử phú pháp của ông có Hựu Tín (宥信), Thành Hùng (成雄), Khoái Nhã (快雅), Khoái Tôn (快尊), v.v. Trước tác của ông để lại có rất nhiều như Đại Nhật Kinh Khẩu Chi Sớ Sao (大日經口之疏鈔) 85 quyển, Tông Nghĩa Quyết Trạch Tập (宗義決擇集) 20 quyển, Bảo Kính Sao (寶鏡抄) 1 quyển, Nhị Giáo Luận Sao (二敎論鈔) 30 quyển, Tất Đàm Quyết Trạch Tập (悉曇決擇集) 5 quyển, v.v.
(永嚴, Yōgon, 1075-1151): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Tổ của Dòng Bảo Thọ Viện (保壽院流), húy là Vĩnh Nghiêm (永嚴), thông xưng là Hạ Dã Pháp Sư (下野法師), tự là Bình Đẳng Phòng (平等房), con của vị Trưởng Quan Kami vùng Hạ Dã (下野, Shimotsuke) là Bình Sư Quý (平師季). Ông theo xuất gia với Khoan Trợ (寬助) của Thành Tựu Viện (成就院) ở Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), rồi đến năm 1108 thì nhậm chức Truyền Pháp A Xà Lê (傳法阿闍梨). Năm 1113, ông đến trú tại Đông Tự (東寺, Tō-ji), chuyên hành lễ Quán Đảnh; và vào năm 1138 thì làm Quyền Thiếu Tăng Đô (權少僧都). Sau đó, ông sáng lập Bình Đẳng Viện (平等院) trên Cao Dã Sơn. Vào năm 1145, ông làm Tự Trưởng của Đông Tự, đến năm 1150 thì làm chức Pháp Ấn (法印), rồi khai sáng Bảo Thọ Viện (保壽院) ở Nhân Hòa Tự và trở thành Tổ của Dòng Bảo Thọ Viện. Trong khoảng niên hiệu Bảo Diên (, 1135-1141), vâng mệnh của Điểu Vũ Thượng Hoàng (鳥羽上皇), ông soạn bộ Đồ Tượng Sao (圖像抄, 10 quyển). Đệ tử phú pháp của ông có Giác Thành (覺成), Thiền Thọ (禪壽), Trường Giác (長覺), Giác Hiểu (覺曉), v.v. Trước tác của ông có Yếu Tôn Pháp (要尊法) 1 quyển, Bình Đẳng Sao (平等抄) 2 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.19 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập