Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thượng Tọa Bộ »»
(倶舍宗, Gusha-shū): tên gọi của một tông phái lớn trong 8 tông phái ở Trung Quốc và trong 6 tông lớn của Phật Giáo vùng Nam Đô, Nhật Bản. Tại Ấn Độ, người ta chia thành 18 bộ phái của Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (xưa gọi là Tiểu Thừa). Lần đầu tiên sau khi đức Phật diệt độ được 400 năm, thể theo lời thỉnh cầu của vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦王) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅), 500 vị A La Hán đã tiến hành kết tập bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận (s: Abhidharma-mahāvibhāṣa-śāstra, 大毘婆沙論), 200 quyển; cho nên trong số 18 bộ phái ấy, tông nghĩa của Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部, tức Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ [s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部]) được thành lập. Bộ luận này theo nghĩa của Lục Túc Luận (s: Śaḍpadaśāstra, 六足論) để giải thích về Phát Trí Luận (s: Abhidharma-jñāna-prasthāna, 發智論), vì vậy giáo nghĩa của Tát Bà Đa Bộ đều tập trung vào bộ luận này. Trải qua 500 năm sau, Bồ Tát Thế Thân (s, p: Vasubandhu, 世親) xuất hiện, đầu tiên xuất gia tu tập theo Tát Bà Đa Bộ (薩婆多部), học tông nghĩa của bộ phái này, rồi sau đó học giáo lý của Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部), nhưng có điều không hài lòng về tông này, nên ông đã y cứ vào bộ Đại Tỳ Bà Sa Luận mà trước tác ra bộ Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論). Trong mỗi phần ông đều lấy ý của Kinh Lượng Bộ để đả phá giáo thuyết của Tát Bà Đa Bộ. Vì vậy, từ đó ông đã tách riêng ra khỏi 18 bộ phái trên. Tại Ấn Độ, bộ luận này được gọi là Thông Minh Luận (聰明論), tất cả mọi người trong và ngoài tông phái đều học cả. Kể từ khi Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nhà Tùy bên Trung Quốc dịch bộ này sang Hán ngữ vào năm thứ 4 (563) niên hiệu Thiên Gia (天嘉), người ta bắt đầu nghiên cứu về nó. Kế đến, Huyền Trang (玄奘, 602-664) nhà Đường lại dịch Câu Xá Luận lần thứ hai vào năm thứ 5 (654) niên hiệu Vĩnh Huy, rồi các môn nhân của ông như Thần Thái (神泰), Phổ Quang (普光), Pháp Bảo (法寳) đã chú sớ cho bộ này. Từ đó Câu Xá Tông bắt đầu hưng thạnh ở Trung Quốc. Tại Nhật Bản, tông này được Đạo Chiêu (道昭, Dōshō, 629-700) truyền vào cùng với Pháp Tướng Tông. Vị này sang nhà Đường cầu pháp vào năm thứ 4 (653) niên hiệu Bạch Trỉ (白雉), theo hầu Huyền Trang và trở về nước vào năm thứ 7 (661) đời Tề Minh Thiên Hoàng (齊明天皇, Saimei Tennō, tại vị 655-661). Ông được xem như là người đầu tiên truyền bá Câu Xá Tông vào Nhật. Tiếp theo, có Trí Thông (智通, Chitsū, ?-?), Trí Đạt (智達, Chitatsu, ?-?), hai người sang nhà Đường vào năm thứ 4 (658) đời Tề Minh Thiên Hoàng, cũng như Huyền Phưởng (玄昉, Gembō, ?-746), vị tăng sang cầu pháp vào năm đầu (717) niên hiệu Dưỡng Lão (養老), đều có truyền tông này vào Nhật. Trong bản Tả Kinh Sở Khải (冩經所啓) ghi ngày mồng 8 tháng 7 năm thứ 12 (740) niên hiệu Thiên Bình (天平) còn lưu lại trong Chánh Thương Viện Văn Khố (正倉院文庫), ta thấy có ghi “Câu Xá Tông 30 quyển”; như vậy sách mà Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch ra đã được bắt đầu nghiên cứu từ khoảng thời gian này. Tên gọi Câu Xá Tông cũng được tìm thấy lần đầu tiên trong bản Tăng Trí Cảnh Chương Sớ Phụng Thỉnh Khải (僧智憬章疏奉請啓). Vì Câu Xá Tông được xem giống như Tát Bà Đa Tông vốn được tìm thấy trong bản Lục Tông Trù Tử Trương (六宗厨子張) ghi ngày 18 tháng 3 nhuận năm thứ 3 niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寳), có thể sự thành lập của học phái này là trong khoảng thời gian năm thứ 3 hay 4 của niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo. Kế đến, trong phần quy định về số người được xuất gia và tu học mỗi năm của các tông phái như trong bức công văn của quan Thái Chính ghi ngày 26 tháng giêng năm thứ 25 (806) niên hiệu Diên Lịch (延曆), ta thấy có quy định Pháp Tướng Tông là 3 người, 2 người đọc Duy Thức Luận (s: Vijñānamātrasiddhi-śāstra, 唯識論) và 1 người đọc về Câu Xá Luận (s: Abhidharmakośa-bhāṣya, 倶舍論); như vậy ta biết được rằng lúc bấy giờ Câu Xá Tông vẫn là tông phái phụ thuộc vào Pháp Tướng Tông. Giáo nghĩa của tông này phân tích các pháp thành 5 vị và 75 pháp, công nhận tính thực tại của các pháp ấy, chủ trương rằng thế giới được thành lập dựa trên các pháp đó và con người tồn tại trong vòng luân hồi đau khổ, vì vậy cần phải đoạn diệt phiền não căn bản và chứng đạt Vô Dư Y Niết Bàn. Cũng giống như Pháp Tướng Tông, tông này cũng chia thành 2 phái là Bắc Tự Truyền (北寺傳) và Nam Tự Truyền (南寺傳). Phái Nam Tự Truyền thì chủ trương thuyết Dụng Diệt (用滅), nghĩa là các pháp hoại diệt nhưng thật thể của chúng vẫn tồn tại và cái tiêu diệt chính là tác dụng. Phái Bắc Tự Truyền đứng trên lập trường của thuyết Thể Diệt (体滅), tức là các pháp sanh khởi nhờ duyên và thật thể của chúng tiêu diệt theo từng Sát Na.
(s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部): là một trong những bộ phái Phật Giáo của Ấn Độ ngày xưa, hiện nay không còn hiện hữu nữa. Nguồn gốc của Đại Chúng Bộ vẫn còn rất mơ hồ, và là đề tài bàn tán sôi nỗi giữa các học giả. Lý do tạo sự hứng thú mãnh liệt về nguồn gốc của bộ phái này chính là văn kiện Luật Tạng (Vinaya) của họ thể hiện dưới nhiều cách để đại diện cho toàn bộ văn phong cổ hơn; vì vậy văn kiện này có liên quan trọng yếu đến lịch sử những văn kiện Luật Tạng của các bộ phái. Ban đầu tín đồ của Đại Chúng Bộ lập cước ở vùng Tây Bắc Ấn, nhưng cũng có mặt ở Đông Nam Ấn, quanh vùng Amarāvatī và Nāgājunikondā; trong khi đó Thượng Tọa Bộ thì ở miền Đông Bắc. Mỗi bộ phái đều có ký thuật riêng của họ. Theo một ký thuật cho biết rằng Đại Chúng Bộ được hình thành trong lần phân lập đầu tiên của Phật Giáo vào năm 320 sau công nguyên. Bộ phái này tách ra từ Thượng Tọa Bộ nhân cuộc tranh luận về tính xác thực của những văn bản nào đó. Đại Chúng Bộ cho rằng các văn bản này do Thượng Tọa Bộ khám phá ra chứ không phải do chính kim khẩu của đức Phật thuyết. Theo ký thuật này, Đại Chúng Bộ không tham gia Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần thứ ba.
(s: Mahīśāsaka, p: Mahiṃsāsaka, 化地部): âm dịch là Di Sa Tắc Bộ (彌沙塞部), còn gọi là Chánh Địa Bộ (正地部), Giáo Địa Bộ (敎地部), Đại Bất Khả Khí Bộ (大不可棄部), tên gọi của một trong 20 bộ phái của Tiểu Thừa. Tương truyền sau khi đức Phật diệt độ khoảng 300 năm, bộ phái này phân ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部) của hệ Thượng Tọa Bộ (上座部). Về tên gọi của bộ phái này, trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論) có ghi rằng: “Người chủ của bộ phái này là quốc vương, nhà vua thống nhiếp đất nước, giáo hóa hàng thứ dân trên đất, cho nên có tên là Hóa Địa. Nhà vua bỏ ngôi vua xuất gia, rộng tuyên Phật pháp, từ đó lấy tên là Hóa Địa Bộ. Pháp sư Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nói rằng: 'Chánh Địa Bộ vốn là thầy nhà vua, muốn chỉnh đốn đất nước, bèn bỏ ngôi vua để hoằng pháp, cho nên có tên là Chánh Địa'”. Về giáo nghĩa của Hóa Địa Bộ, Dị Bộ Tông Luân Luận chia làm hai phần là Bổn Tông Đồng Nghĩa (本宗同義) và Mạt Tông Dị Nghĩa (末宗異義); trong đó, Bổn Tông Đồng Nghĩa rất giống Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部), cho rằng không có quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại cũng như pháp vô vi. Từ đó, phái này lập ra 9 loại vô vi gồm Trạch Diệt (擇滅), Phi Trạch Diệt (非擇滅), Hư Không (虛空), Bất Động (不動), Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), và Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如). Họ chủ trương thấy đạo nhất thời, hiện quán lý của Tứ Thánh Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-arya-sacca, 四聖諦) và cho rằng 5 thức có năng lực tạp nhiễm. Đối với chủ trương về 4 quả Sa Môn, họ cho rằng Quả Dự Lưu (s: srotāpatti-phala, p: sotāpatti-phala, 預流果) còn trở lui nữa, chỉ có Quả A La Hán (s: arhant-phala, p: arahant-phala, 阿羅漢果) thì bất thối. Trong khi đó, Mạt Tông Dị Nghĩa thì gần với học thuyết của Tát Bà Đa Bộ (s: Sarvāstivāda, 薩婆多部), chủ trương thật có quá khứ, tương lai. Từ Ân (慈恩) và Hiền Thủ (賢首) lấy chủ trương của Bổn Tông Đồng Nghĩa để lập nên Pháp Vô Khứ Lai Tông (法無去來宗), và lấy Mạt Tông Dị Nghĩa để hình thành Pháp Hữu Ngã Vô Tông (法有我無宗). Luật của Hóa Địa Bộ hành trì là Sa Di Tắc Bộ Hòa Hê Ngũ Phần Luật (彌沙塞部和醯五分律), 30 quyển.
(s: Sarvāstivādin, 有部): gọi đủ là Thánh Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (聖根本說一切有部), Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部), là một trong 20 bộ phái của Tiểu Thừa, âm dịch là Tát Bà A Tư Để Bà Địa (薩婆阿私底婆地), Tát Bà Đế Bà (薩婆帝婆), Tát Bà Đa (薩婆多), ý dịch là Nhất Thiết Hữu (說一切有), Nhất Thiết Ngữ (一切語); còn gọi là Hữu Bộ Tông (有部宗), Hữu Tông (有宗), là một bộ phái của Thượng Tọa Bộ. Bộ phái này chủ trương rằng các pháp trong ba đời là có thật. Đại bộ phận phái này phân bố ở các vùng Tây Bắc Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅), Kiền Đà La (s, p: Gāndhāra, Gandhāra, 犍陀羅) thuộc Ấn Độ ngày xưa; và đã một thời cực thịnh. Họ y cứ chủ yếu vào các luận thư A Tỳ Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨).
(s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉): còn gọi là Đại Ca Diếp (大迦葉), Ca Diếp Ba (迦葉波), Ca Nhiếp Ba (迦攝波); ý dịch là Ẩm Quang (飲光), là một trong 10 vị đại đệ tử của đức Phật, vị tổ được truyền trao pháp tạng đầu tiên từ đức Phật, thường được gọi là Tây Thiên Thủ Truyền Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả (西天首傳摩訶迦葉尊者). Ông sanh ra trong một gia đình Bà La Môn, gần ngoại ô Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城). Sau khi đức Phật thành đạo được 3 năm, ông theo làm đệ tử Ngài, rồi 8 ngày sau thì chứng nhập cảnh địa A La Hán, là người không chấp trước số một trong hàng đệ tử Ngài. Ông có nhân cách thanh liêm, được Phật rất tin tưởng, từng được Ngài chia nữa tòa cho mà ngồi. Sau khi Phật diệt độ, ông trở thành người lãnh đạo giáo đoàn, tiến hành triệu tập Đại Hội Kết Tập Kinh Điển lần đầu tiên tại Thành Vương Xá. Về sau, ông truyền pháp lại cho Tôn giả A Nan (s, p: Ānanda, 阿難). Tương truyền ông vào trong Kê Túc Sơn (s: Kukkuṭapādagiri, Kurkuṭapādagiri, p: Kukkuṭapadagiri, Kurkuṭapadagiri, 雞足山) nhập định để chờ đức Phật Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) xuất hiện. Thiền Tông xem ông là người đầu tiên hành trì pháp môn không chấp trước, đặc biệt xem ông là Đầu Đà Đệ Nhất (Khổ Hạnh Số Một). Câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu (拈華微笑) liên quan đến Tôn Giả Ca Diếp được truyền tụng mãi cho đến ngày nay. Ngoài ra, vị Phật thứ 6 trong 7 vị Phật thời quá khứ cũng có trùng tên là Ca Diếp. Trong số các đệ tử của đức Phật còn có Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (s: Uruvilvā-kāśyapa, p: Uruvela-kassapa, 優樓頻螺迦葉), Già Da Ca Diếp (s: Gayā-kāśyapa, 伽耶迦葉), v.v., đều có tên trùng Ca Diếp. Vị tổ của Ẩm Quang Bộ (s: Kāśyapīya, 飲光部) thuộc Thượng Tọa Bộ (s: Sthaviravāda, p: Theravāda, 上座部) cũng có tên giống vậy. Trong Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經) có thuật lại truyền thuyết rằng xưa kia khi đức Phật Thích Ca đang ở trên Hội Linh Sơn, lúc ấy ngài cầm cành hoa Kim Ba La Hoa (金波羅華) do chư thiên đem dâng cúng, đưa ra trước hội chúng hơn 80.000 người. Đại chúng hết thảy đều ngẩn ngơ im lặng mà không thể nào hiểu được thâm ý của đức Như Lai thế nào. Khi ấy, chỉ có một mình Ma Ha Ca Diếp mĩm cười mà thôi. Thấy vậy đức Phật bèn dạy rằng: “Hữu ngã chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, tức phó chúc vu nhữ, nhữ năng hộ trì, tương tục bất đoạn (有我正法眼藏涅槃妙心、卽付囑于汝、汝能護持、相續不斷, ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, nay phó chúc cho ngươi; ngươi có thể giữ gìn, làm cho liên tục không dứt đoạn)”, và truyền trao chánh pháp cho vị này. Đây được xem như là khởi nguyên của Thiền Tông.
(s: Buddhaghoṣa, p: Buddhaghosa, 佛音, thế kỷ thứ 5 Tây lịch): còn gọi là Phật Minh (佛鳴), Giác Âm (覺音), âm dịch là Phật Đà Cù Sa (佛陀瞿沙), xuất thân vùng Phật Đà Già Da (s: Buddha-gayā, 佛陀伽耶, tức Bồ Đề Đạo Tràng [菩提道塲]), nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), sanh ra trong gia đình Bà La Môn. Ban đầu ông học các thánh điển Phệ Đà (s: Veda, 吠陀), tinh thông Du Già (s: Yoga, 瑜伽), Số Luận, v.v. Sau ông quy y theo Phật Giáo, thông hiểu các kinh điển, soạn ra Phát Trí Luận (p: Ñāṇodaya, 發智論), Thù Thắng Nghĩa Luận (p: Atthasālinī, 殊勝義論, bản chú giải của Pháp Tụ Luận [法聚論]). Vào năm 432 Tây lịch, ông sang Tích Lan, trú tại Đại Tự (p: Mahāvihāra, 大寺), cùng với Trưởng Lão Tăng Già Ba La (p: Saṅghapāla, 僧伽波羅) nghiên cứu các thánh điển và giáo nghĩa hiện lưu trữ tại chùa này, chuyển dịch sang tiếng Pāli, rồi soạn ra Thanh Tịnh Đạo Luận (p: Visuddhimagga, 清淨道論), Thiện Kiến Luật Chú Tự (p: Samantapāsādikā, 善見律注序), v.v., để xiển dương giáo nghĩa của Phật Giáo Thượng Tọa Bộ. Trong đó, có thể nói rằng Thanh Tịnh Đạo Luận là trước tác cương yếu bao quát Tam Tạng kinh điển cũng như các luận sớ. Sau đó, tại tu viện Granthakara parivena thuộc Anurādhapura, ông dịch 4 bộ Kinh A Hàm, Luận Tạng sang tiếng Pāli, soạn bản chú sớ cho các bộ này. Bản giải thích Trường Bộ Kinh (p: Dīghanikāya, 長部經) là Cát Tường Duyệt Ý Luận (p: Sumaṅgalavilāsinī, 吉祥悅意論), bản chú sớ của Trung Bộ Kinh (p: Majjhimanikāya, 中部經) là Phá Trừ Nghi Chướng Luận (p: Papañcasūdanī, 破除疑障論), bản cho Tương Ưng Bộ Kinh (p: Saṁyuttanikāya, 相應部經) là Hiển Dương Tâm Nghĩa Luận (p: Sāratthappakāsinī, 顯揚心義論), cho Tăng Chi Bộ Kinh (p: Aṅguttaranikāya, 增支部經) là Mãn Túc Hy Cầu Luận (p: Manorathapūraṇī, 滿足希求論), v.v. Nhờ vậy, lần đầu tiên Tam Tạng Tiếng Pāli được hoàn bị. Người dân Tích Lan sùng ngưỡng ông như là Bồ Tát Di Lặc tái sanh. Đến cuối đời, ông trở về Ấn Độ và qua đời tại đó. Tuy nhiên, theo truyền thuyết của Phật Giáo Miến Điện, ông là người của nước này, từ Kim Địa Quốc (金地國) sang Tích Lan vào năm 400 Tây lịch.
(s: Śākya-muni, p: Sakya-muni, 釋迦牟尼): ý là bậc Thánh nhân xuất thân từ dòng họ Thích Ca; còn gọi là Thích Ca Văn Ni (釋迦文尼), Xa Ca Dạ Mâu Ni (奢迦夜牟尼), Thích Ca Mâu Nẵng (釋迦牟曩), Thích Ca Văn (釋迦文); gọi tắt là Thích Ca (釋迦), Mâu Ni (牟尼), Văn Ni (文尼); ý dịch là Năng Nhân (能仁), Năng Nhẫn (能忍), Năng Tịch (能寂), Tịch Mặc (寂默), Năng Mãn (能滿), Độ Ốc Tiêu (度沃焦), hay Thích Ca Tịch Tĩnh (釋迦寂靜), Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn (釋迦牟尼世尊), Thích Tôn (釋尊); là đấng giáo tổ của Phật Giáo. Nguyên do xưng hiệu của Ngài có thể tìm thấy trong Quán Chư Dị Đạo Phẩm (觀諸異道品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 20, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 20, A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ Luận (阿毘曇八犍度論, Taishō Vol. 26, No. 1543) quyển 30, v.v. Đức Thích Tôn vốn là Thái Tử của vua Tịnh Phạn (s: Śuddhodana, p: Suddhodana, 淨飯) thành Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛) thuộc miền Bắc Ấn Độ. Thành này hiện tại ở vùng phụ cận Tilori-Kot (提羅里克, Đề La Lí Khắc) thuộc phía Nam Nepal (尼泊爾, Ni Bạc Nhĩ), phía Đông Bắc sông Rapti (拉布提, Lạp Bố Đề). Diện tích tiểu quốc này khoảng 320 m2, thuộc vào vương quốc Kiều Tát La (s: Kauśala, Kośalā, p: Kosala, 憍薩羅). Đương thời Bắc Ấn thực hành chế độ Cộng Hòa quý tộc, phân thành 10 bang thành nhỏ, trong đó chọn ra vị lãnh đạo có thế lực nhất, và lúc bấy giờ vua Tịnh Phạn là vị lãnh tụ tối cao. Hoàng hậu Ma Da (s: Māyā, 摩耶), mẫu thân của đức Phật, là con gái của chủ Thành Thiên Tý (s: Devadaha, 天臂) thuộc bộ tộc Cư Lợi (居利) lân quốc. Trước khi hạ sinh Thái Tử, theo tập tục đương thời, phu nhân phải quay trở về Thành Thiên Tý để chờ ngày lâm bồn, dọc đường khi đang dừng chân nghỉ tại vườn Lâm Tỳ Ni (s, p: Lumbinī, 藍毘尼), ngay dưới gốc cây Vô Ưu (s: aśoka, 無憂), nàng hạ sinh Thái Tử. Theo Tu Hành Bản Khởi Kinh (修行本起經, Taishō Vol. 3, No. 184) quyển Thượng, Phẩm Giáng Thân (降身品), khi đản sanh, đức Thích Tôn đi bảy bước, đưa tay lên nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã vi tôn, Tam Giới giai khổ, ngô đương an chi (天上天下、唯我爲尊、三界皆苦、吾當安之, trên trời dưới đất, chỉ ta trên hết, Ba Cõi là khổ, ta sẽ làm yên).” Ngoài ra, các điển tịch như Vị Tằng Hữu Pháp Kinh (未曾有法經) của Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 8, dị xuất bồ tát bản khởi kinh (異出菩薩本起經, Taishō Vol. 3, No. 188), Phẩm Dục Sanh Thời Tam Thập Nhị Thụy (欲生時三十二瑞品) của Phổ Diệu Kinh (普曜經, Taishō Vol. 3, No. 186) quyển 2, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō Vol. 3, No. 189) quyển 1, Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經, Taishō Vol. 3, No. 191) quyển 3, Phẩm Thọ Hạ Đản Sanh (樹下誕生品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 8, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 20, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 70, v.v., đều có ghi lại nhiều tướng lạ khác nhau khi đức Thích Tôn hạ sanh. Sau khi trở về cung, Thái Tử được đặt cho tên là Tất Đạt Đa (s: Siddhārtha, p: Siddhattha, 悉達多), hay Tát Bà Tất Đạt (s: Sarva-siddhārtha, p: Sabba-siddhattha, 薩婆悉達), Tát Bà Ngạch Tha Tất Đà (s: Sarvārtha-siddha, 薩婆額他悉陀), Tát Bà Hạt Thích Tha Tất Đà (薩婆曷刺他悉陀), Tất Đạt La Tha (悉達羅他), Tất Đạt (悉達); ý dịch là Nhất Thiết Nghĩa Thành (一切義成), Nhất Thiết Sự Thành (一切事成), Tài Cát (財吉), Cát Tài (吉財), Thành Lợi (成利), Nghiệm Sự (驗事), Nghiệm Nghĩa (驗義). Sau khi sanh con được 7 ngày, phu nhân qua đời, Thái Tử được dì Ma Ha Ba Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, 摩訶波闍波提) nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn. Theo Phẩm Tập Học Kỷ Nghệ (習學技藝品) của Phật Bản Hạnh Tập Kinh quyển 11, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự (根本說一切有部毘奈耶破僧事, Taishō Vol. 24, No. 1450) quyển 3, v.v., cho biết rằng thưở thiếu thời Thái Tử từng theo học tập văn chương với Bà La Môn Tỳ Xa Mật Đa (s: Viśvamitra, 毘奢蜜多), học võ nghệ với Sàn Đề Đề Bà (s: Kṣāntideva, 羼提提婆), hết thảy đều thông hiểu. Khi trưởng thành, Thái Tử kết hôn với Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅), con gái của Thiện Giác Vương (s: Suprabuddha, 善覺王)—thành chủ của Thiên Tý Thành, hạ sanh La Hầu La (s, p: Rāhula, 羅睺羅). Theo Phẩm Du Quán (遊觀品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ cho biết rằng Thái Tử từng ra bốn cửa thành dạo chơi, thấy các hình tượng già, bệnh, chết, vị Sa Môn (s: śramaṇa, p: samaṇa, 沙門), v.v., thâm cảm được nỗi thống khổ cũng như vô thường của kiếp người, bèn dấy khởi ý chí xuất gia tu đạo. Năm lên 29 tuổi (có thuyết cho là 19), nữa đêm Người rời khỏi vương cung, tự cởi bỏ áo mão để trở thành Sa Môn. Ban đầu, Thái Tử cầu đạo với tiên nhân Bạt Già Bà (s: Bhārgava, 跋伽婆) của nước Tỳ Xá Ly (s: Vaiśālī, p: Vesālī, 毘舍離), rồi đến thọ giáo với các hiền giả A La La Ca Lam (s: Ārāḍa-kālāma, 阿羅邏迦藍), Uất Đà Ca La Ma Tử (s: Udraka-rāmaputra, 鬱陀迦羅摩子) ở Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城). Cuối cùng, Người đến Khổ Hạnh Lâm ở thôn Ưu Lâu Tần La (s: Uruvilvā, 優樓頻羅) thuộc phương Nam thành Già Da (s, p: Gayā, 伽耶) của vương quốc Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), bắt đầu cuộc sống khổ hạnh trong vòng 6 năm, và có 5 người thị giả do vua Tịnh Phạn phái đến cùng tu. Trong thời gian này, mỗi ngày Người chỉ ăn một hạt mè, một hột lúa mạch, đến nỗi thân hình khô gầy, tâm thể suy kiệt, nhưng cuối cùng vẫn không thành đạo; nên Người mới ngộ được rằng khổ hạnh không phải là nhân đạt đến đạo quả, bèn rời khỏi khu rừng này. Lúc bấy giờ, 5 người cùng tu ngộ nhận rằng Thái Tử thối thất đạo tâm, nên bỏ đi. Thái Tử đến tắm rửa bên dòng sông Ni Liên Thuyền (s: Nairañjanā, 尼連禪), thọ nhận bát sữa cúng dường của cô mục nữ. Sau khi phục hồi thể lực, Người đến dưới cây Tất Bát La (s: pippala, 畢鉢羅) ở thôn Già Da, lấy cỏ Cát Tường trãi thành tòa Kim Cang, ngồi Kiết Già xoay mặt về hướng Đông, thân ngay thẳng chánh niệm, tâm tĩnh lặng mặc chiếu, tư duy về đạo giải thoát. Sau 49 ngày, vào lúc trời hừng sáng ngày mồng 8 tháng 12, Người hoát nhiên đại ngộ, lúc đó là 35 tuổi (có thuyết cho là 32). Do nhân duyên này, cây Tất Bát La được gọi là Bồ Đề Thọ (s: bodhivṛkṣa, 菩提樹). Sự kiện đức Thích Tôn hàng phục ma quân, cho đến thành đạo được ghi lại trong các điển tịch như La Ma Kinh (羅摩經) của Trung A Hàm Kinh quyển 56, Lục Niên Cần Khổ Phẩm (六年勤苦品) và Hàng Ma Phẩm (降魔品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 3, phật bản hạnh tập kinh quyển 26~30, Ngũ Phần Luật (五分律, Taishō Vol. 22, No. 1421) quyển 15, v.v. Sau khi thành đạo, đức Phật đến vườn Lộc Dã (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿野, tức Lộc Uyển), Thành Ba La Nại (s: Vārāṇasī, p: Bārāṇasī, 波羅奈), độ cho 5 vị thị giả đã từng cùng tu với Ngài trước đây. Các vị này sau trở thành những Tỳ Kheo nổi tiếng là A Nhã Kiều Trần Như (p: Ājñāta-Kauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), A Thấp Bà Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿濕婆恃), Bạt Đề (s: Bhadrika, p: Bhaddiya, 跋提), Ma Ha Nam (s, p: Mahānāma, 摩訶男), Bà Sa Ba (s: Bāṣpa, p: Vappa, 婆沙波, tức Thập Lực Ca Diếp [s: Daśabala-kāśyapa, p: Dasabala-kassapa, 十力迦葉]). Liên quan đến sự tích đức Phật lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, diễn thuyết Tứ Thánh Đế (s: catvāri-āryasatyāni, p: cattāri-ariyasaccāni, 四聖諦), Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道), v.v., Chuyển Pháp Luân Kinh (轉法輪經) của Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, Taishō Vol. 2, No. 99) quyển 15, Ngũ Phần Luật quyển 15, Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự quyển 39, v.v., có ký lục đầy đủ. Như trong Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa (法華經通義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 31, No. 611) quyển 4 có đoạn rằng: “Thích Tôn sơ ư Lộc Uyển, tam chuyển Tứ Đế pháp luân, độ tham thị ngũ nhân, nhi Kiều Trần tiên ngộ, dĩ tối sơ đắc độ (釋尊初於鹿苑、三轉四諦法輪、度參侍五人、而憍陳先悟、以最初得度, đức Thích Tôn ban đầu tại Lộc Uyển, ba lần chuyển bánh xe pháp thuyết Tứ Đế, độ năm người hầu cận tham học, mà Kiều Trần Như ngộ trước, là người đắc độ đầu tiên).” Sau này, đức Phật tự xưng là Như Lai (s, p: tathāgata, 如來). Có rất nhiều ngữ nghĩa của từ này, nhưng nghĩa chung nhất của nó là “thừa như thật chi đạo, nhi thiện lai thử Ta Bà thế giới (乘如實之道、而善來此娑婆世界, mang đạo như thật mà khéo đến thế giới Ta Bà này).” Sau khi chuyển Pháp Luân lần đâu tiên, đức Thích Tôn đến nước Ma Kiệt Đà, hóa độ 3 anh em Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp (s: Uruvilvā-kāśyapa, 優樓頻羅迦葉), Na Đề Ca Diếp (s: Nadi-kāśyapa, 那提迦葉), Già Da Ca Diếp (s: Gayā-kāśyapa, 伽耶迦葉) của phái Bái Hỏa Giáo (拜火敎) và cả ngàn đệ tử của họ. Tiếp theo, Ngài hóa độ Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗) và Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連) thuộc Phái Ngụy Biện của Lục Sư Ngoại Đạo; về sau chính hai vị này trở thành đệ tử thượng túc của đức Phật. Sau đó, tại Thành Vương Xá, vua Tần Bà Ta La (s, p: Bimbisāra, 頻婆娑羅) quy y theo đức Phật; nhà vua cho xây dựng Tinh Xá trong vườn trúc do Trưởng giả Ca Lan Đà (s: Kalanda, 迦蘭陀) dâng cúng, lấy tên là Ca Lan Đà Trúc Lâm Tinh Xá (迦蘭陀竹林精舍). Đến đây, giáo đoàn Phật Giáo phát triển với thế lực mạnh. Về sau, đức Phật có trở về cố hương Ca Tỳ La Vệ một lần, số người quy y theo rất đông, trong đó có người em cùng cha khác mẹ Nan Đà (s, p: Nanda, 難陀), con trai La Hầu La, người em họ Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多), người thợ hớt tóc Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離), v.v., mọi người đều xuống tóc xuất gia. Ngài thuyết pháp cho trưởng giả Tu Đạt Đa (s, p: Sudatta, 須達多) ở Thành Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛), nhân đó trưởng giả kiến lập ngôi Đại Tinh Xá trong khu rừng do Thái Tử Kỳ Đà (s, p: Jeta, 祇陀) tặng, để dâng cúng đức Phật. Đây gọi là Kỳ Hoàn Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍) hay Kỳ Viên Tinh Xá (祇園精舍). Vào lúc này, vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) cũng phát tâm quy y với đức Phật. Sau khi vua Tịnh Phạn băng hà, đức Phật lại trở về cố hương lần nữa. Về sau, bà di mẫu Ma Ha Bà Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, p: Mahāpajāpatī, 摩訶波闍波提), công chúa Da Du Đà La (s: Yaśodharā, p: Yasodharā, 耶輸陀羅) cũng xuống tóc xuất gia, và đây được xem như là khởi đầu cho giáo đoàn Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); trong đó Ma Ha Bà Xà Ba Đề là Tỳ Kheo Ni đầu tiên. Từ đó về sau, đức Thích Tôn đi khắp Ấn Độ thuyết pháp giáo hóa, bất luận giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, thảy đều được hưởng ân huệ giáo pháp của Ngài. Giáo pháp ấy ảnh hưởng rất lớn đối với văn hóa cũng như tôn giáo Ấn Độ. Sau khi Ngài thành đạo, những nơi Ngài đã từng trãi qua Kết Hạ An Cư, đều được ghi rõ trong Tăng Già La Sát Sở Tập Kinh (僧伽羅剎所集經, Taishō Vol. 4, No. 194) quyển Hạ. Theo đó, đức Phật đã từng trú qua các nơi như nước Ba La Nại, núi Linh Thứu (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 靈鷲山), núi Ma Câu La (s: Makula, 摩拘羅), cõi Trời Ba Mươi Ba, cõi quỷ thần, vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc (祇樹給孤獨) ở Thành Xá Vệ, Chá Lê Sơn (柘梨山), v.v. Theo Phật Thuyết Bát Đại Linh Tháp Danh Hiệu Kinh (佛說八大靈塔名號經, Taishō Vol. 32, No. 1685), đức Phật từng tu khổ hạnh trên núi Tuyết Sơn, sau từng sống tại rừng Tỳ Sa (毘沙), đỉnh núi Nhã Lí (惹里), các tụ lạc Đại Dã (s: Aḷāvī, 大野), Mao Nỗ (尾努), v.v. Hơn nữa, học giả Anh quốc T.W. Rhys Davids (1843-1922) căn cứ vào tích truyện Phật Giáo của Tích Lan, Miến Điện, bản pháp cú kinh chú (p: Dhammapada atthakathā, 法句經註) tiếng Pāli, v.v., cho rằng sau khi kiến lập vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, đức Phật đã từng trú tại Đại Lâm (p: Mahā-vana, 大林) của Thành Tỳ Xá Ly (s: Vaiśāli, 毘舍離), núi Ma Câu La, Tăng Ca Xá (p: Saṅkissa, 僧迦舍), Ba Lợi Lôi Nhã Tạp (s: Parileyyaka, 巴利雷雅卡), Mạn Đặc Lạt (p: Mantala, 曼特剌), v.v. Ngoài ra, Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 3, Phân Biệt Công Đức Luận (分別功德論, Taishō Vol. 25, No. 1507) quyển 2, Cao Tăng Pháp Hiển Truyện (高僧法顯傳, Taishō Vol. 51, No. 2085), v.v., cũng có ký lục như vậy. Tổng hợp các tư liệu trên, chúng ta có thể suy ra rằng địa phương hoằng pháp của đức Phật phần lớn tập trung tại hai thành Xá Vệ và Vương Xá. Về những sinh hoạt cuối đời của Ngài, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 26, Phật Thuyết Nghĩa Túc Kinh (佛說義足經, Taishō Vol. 4, No. 198) quyển Hạ, Xuất Diệu Kinh (出曜經, Taishō Vol. 4, No. 212) quyển 16, Tỳ Ni Mẫu Kinh (毘尼母經, Taishō Vol. 24, No. 1463) quyển 4, Ngũ Phần Luật quyển 3, 21, 25, Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 46, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự quyển 13, 14, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 2, v.v., có ký lục rõ ràng. Lúc bấy giờ, Đề Bà Đạt Đa muốn bức bách đức Phật phải nhường lại giáo đoàn tăng chúng cho ông, nhưng ý đồ không thành, bèn phá tăng hoại Phật. Thêm vào đó, vua Lưu Ly (琉璃), con của vua Ba Tư Nặc, sau khi tức vị, tấn công Thành Ca Tỳ La Vệ, cố hương của đức Phật, diệt vong dòng họ Thích Ca. Vào năm cuối cùng khi đức Phật còn tại thế, Ngài rời nước Ma Kiệt Đà, đi về phía Bắc sông Hằng, kinh qua Tỳ Xá Ly, đến Thành Ba Bà (s: Pāvā, 波婆), thọ nhận bữa cơm cúng dường của người thợ vàng Thuần Đà (s, p: Cunda, 純陀), và nhân vì ăn loại nấm Tô Ca Lạp Ma Đạt Phạt (s: sūkaramaddava, 蘇迦拉摩達伐, tức nấm cây Chiên Đàn) mà mắc bệnh. Trước khi lâm chung, Ngài đến tắm lần cuối cùng tại dòng sông Câu Tôn (p: Kakuṭṭha, 拘孫河), rồi đến rừng Sa La Song Thọ (沙羅雙樹) ở Thành Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), đầu xoay về hướng Bắc, mặt hướng phía Tây, nằm thế cát tường. Vào nữa đêm, Ngài để lại lời giáo huấn cuối cùng cho chúng đệ tử, rồi sau đó thì an nhiên nhập diệt. Ban đầu, di cốt của đức Thích Tôn được an trí tại Thiên Quan Tự (s: Makuṭabandhana-cetiya, 天冠寺) của bộ tộc Mạt La (s, p: Malla, 末羅), sau đó hỏa táng. Khi tham gia lễ Trà Tỳ có sứ đoàn của 8 nước, gồm Câu Thi Na Yết La (拘尸那揭羅), Ba Bà (波婆), Giá La (遮羅), La Ma Già (羅摩伽), Tỳ Lưu Đề (毘留提), Ca Tỳ La (迦毘羅), Tỳ Xá Ly (毘舍離), Ma Kiệt Đà (摩揭陀), v.v., do vấn đề phân phối Xá Lợi (s: śarīra, p: sarīra, 舍利) mà nảy sinh đấu tranh lẫn nhau. Sau đó, nhờ sự điều đình của Bà La Môn Hương Tính (s: Doṇa, 香姓) mà được yên ổn, cho nên người này có được bình Xá Lợi. Từ đó, mỗi nước dựng tháp cúng dường, và đây là phát xuất của truyền thống thập tháp (10 ngôi tháp) ngày nay. Năm đức Phật nhập diệt, tại Hang Thất Diệp (s: Sapta-parṇa-guhā, 七葉窟) của Thành Vương Xá, cuộc kết tập kinh điển lần đầu tiên được tiến hành. Đương thời, Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) là người triệu tập chủ yếu; A Nan (s, p: Ānanda, 阿難) và Ưu Ba Ly (s, p: Upāli, 優波離) thì tụng đọc các Kinh Luật của Phật thuyết trên cơ sở từng được nghe qua, rồi được đại chúng thảo luận, hiệu đính để trở thành tiêu chuẩn cho Kinh Luật đời sau. Về sau, trãi qua biết bao biến thiên, giáo pháp của đức Thích Tôn được phân thành hai hệ thống chính, truyền bá khắp nơi: Nam Truyền chủ yếu là tiếng Pāli và Bắc Truyền chủ yếu là kinh điển Hán dịch. Liên quan đến năm tháng xác thật đức Phật đản sanh, xuất gia, thành đạo, lần đầu chuyển Pháp Luân, tuổi thọ, nhập diệt, v.v., trong kinh điển có nhiều thuyết khác nhau. Về tuổi thọ, có 4 thuyết chính: (1) Tam Thế Đẳng Phẩm (三世等品) của Bồ Tát Tùng Đâu Thuật Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ Kinh (菩薩從兜術天降神母胎說廣普經, Taishō Vol. 12, No. 384, tức Bồ Tát Xử Thai Kinh [菩薩處胎經]) quyển 23 cho là thọ 84 tuổi. (2) Bát Nê Hoàn Kinh (般泥洹經, Taishō Vol. 1, No. 6) quyển Hạ cho là 79 tuổi. (3) Thọ Lượng Phẩm (壽量品) của Kim Quang Minh Kinh (金光明經, Taishō Vol. 16, No. 663) quyển 1, Phật Thuyết Bát Đại Linh Tháp Danh Hiệu Kinh (佛說八大靈塔名號經, Taishō Vol. 32, No. 1685), Đại Bát Niết Bàn Kinh (p: Mahāparinibbāna-sutta, 大般涅槃經) bản tiếng Pāli, truyền thống của Miến Điện, v.v., cho là 80. (4) A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 126 cho là hơn 80. Về niên đại đản sanh của Ngài, học giả hiện đại cũng có nhiều suy định khác nhau. Học giả Nhật Bản Vũ Tỉnh Bá Thọ (宇井伯壽, Ui Hakuju, 1882-1963) cho rằng năm Phật đản sanh là 466 trước CN. Trung Thôn Nguyên (中村元, Nakamura Hajime, 1912-1999) cũng ý cứ vào thuyết này, sau lấy sử liệu mới phát hiện của Hy Lạp, sau khi khảo chứng thì cho là năm 463 trước CN. Về ngày tháng đản sanh của đức Phật, có 5 thuyết khác nhau. (1) Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Vol. 1, No. 1) quyển 4, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō Vol. 3, No. 189) quyển 1, Phật Bản Hạnh Tập Kinh (佛本行集經, Taishō Vol. 3, No. 190) quyển 7, Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa (薩婆多毘尼毘婆沙, Taishō Vol. 23, No. 1440) quyển 2, v.v., cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Bồ Tát Giáng Than Phẩm (菩薩降身品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh (修行本起經, Taishō Vol. 3, No. 184) quyển Thượng cho là ngày mồng 7 hay 8 tháng 4. (3) Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh (太子瑞應本起經, Taishō Vol. 3, No. 185) quyển Thượng, Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi Kinh (異出菩薩本起經, Taishō Vol. 3, No. 188), Sanh Phẩm (生品) của Phật Sở Hành Tán (佛所行讚, Taishō Vol. 4, No. 192) quyển 1, Phật Thuyết Thập Nhị Du Kinh (佛說十二遊經, Taishō Vol. 4, No. 195), Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh (佛說灌洗佛形像經, Taishō Vol. 16, No. 695), v.v., thì cho là ngày mồng 8 tháng 4. (4) Điều Kiếp Tỷ La Phạt Tốt Đổ Quốc (劫比羅伐窣堵國條) của Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 6 thì cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Vesākhā. (5) Thượng Tọa Bộ (上座部) cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. Về ngày tháng xuất gia của đức Phật, có 5 thuyết. (1) Trường A Hàm Kinh cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 2 cho là ngày mồng 7 tháng 2. (3) Xuất Gia Phẩm (出家品) của Tu Hành Bản Khởi Kinh quyển Hạ cho là ngày mồng 7 tháng 4. (4) Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi Kinh quyển Thượng, Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh, v.v., cho là mồng 8 tháng 4. (5) Bản Sanh Kinh Phật Truyện (本生經佛傳) bản tiếng Pāli cho là ngày thứ 15 của tháng A Sa Trà (s: Āsāḷhā, 阿沙荼). Về ngày tháng thành đạo của Ngài, có 4 thuyết. (1) Trường A Hàm Kinh quyển 4, Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh quyển 3, Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 2, v.v., cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Bản Đại Sử (p: Mahāvaṃsa, 大史) tiếng Pāli cho là ngày trăng tròn tháng Vesākhā. (3) Đại Đường Tây Vức Ký quyển 8 cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Vesākhā. (4) Thượng Tọa Bộ cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. Về ngày tháng lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, có 2 thuyết. (1) Bồ Tát Xử Thai Kinh quyển 7 cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 182 cho là ngày mồng 8 của tháng Ca Lật Để Ca (s: Kārttika, 迦栗底迦, hay Ca Hi Na [迦絺那]). Về ngày tháng nhập diệt của Ngài, có 6 thuyết khác nhau. (1) Trường A Hàm Kinh quyển 4 cho là ngày mồng 8 tháng 2. (2) Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 1, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 1, v.v., cho là ngày 15 tháng 2. (3) Bài tựa của Nhất Thiết Thiện Kiến Luật (p: Samantapāsādikā, 一切善見律) bản tiếng Pāli, Luật Tạng (p: Vinaya-piṭaka, 律藏) tiếng Pāli, chương thứ 3 của Đại Sử, Điều Câu Thi Na Yết La Quốc (拘尸那揭羅國條) của Đại Đường Tây Vức Ký quyển 6, v.v., cho là ngày 15 hậu bán tháng Vesākhā. (4) Tát Bà Đa Tỳ Ni Tỳ Bà Sa quyển 2 cho là ngày mồng 8 tháng 8. (5) Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 191, Đại Đường Tây Vức Ký quyển 6 viện dẫn truyện của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, p: Sabbatthivādin, 說一切有部), cho là ngày mồng 8 hậu bán tháng Ca Lật Để Ca. (6) Phật Thuyết Quán Tẩy Phật Hình Tượng Kinh cho là ngày mồng 8 tháng 4. Bên cạnh đó, liên quan đến niên đại nhập diệt của đức Thích Tôn, cũng có nhiều thuyết bất đồng. Như học giả Vũ Tỉnh Bá Thọ của Nhật thì chủ trương là năm 386 trước CN. Tiến Sĩ Trung Thôn Nguyên cho là năm 383 trước CN. Pháp sư Ấn Thuận (印順, 1906-2005) của Trung Hoa thì chủ trương năm 390 trước CN. Tổng hợp tất cả những thông tin vừa nêu trên, ngày tháng đản sanh, xuất gia, thành đạo của đức Phật có thể phân thành 3 thuyết chính: (1) ngày 8 tháng 2, (2) ngày 8 tháng 4, (3) ngày 15 tháng 2. Ngày tháng nhập diệt cũng được chia thành 3 thuyết: (1) ngày 8 tháng 2, (2) ngày 15 tháng 2, (3) ngày 8 tháng 8. Ngoài ra, Nhị Giáo Luận (二敎論) của Đạo An (道安, 312[314]-385) nhà Bắc Chu, Câu Xá Luận Bảo Sớ (俱舍論寶疏) quyển 1, v.v., so sánh tháng của lịch Ấn Độ và lịch Trung Quốc, cho rằng tháng 2 của Ấn Độ tương đương với tháng 4 của Tàu. Thêm vào đó, vào ngày mồng 1 mỗi tháng của lịch Ấn Độ thì tương đương với ngày 16 âm lịch của Trung Quốc; ngày cuối tháng thì tương đương với ngày 15 của tháng kế tiếp theo lịch của Trung Quốc.
(s: catasraḥ parṣadaḥ, p: catasso parisā, 四眾): Bốn Chúng; còn gọi là Tứ Bối (四輩), Tứ Bộ Chúng (四部眾), Tứ Bộ Đệ Tử (四部弟子); có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho 4 hạng người, hay 4 hạng đệ tử hình thành nên giáo đoàn Phật Giáo, gồm Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞), Ưu Bà Di (s, p: upāsikā, 優婆夷). Hay chỉ cho bốn chúng xuất gia là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌) và Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼). Như trong Liễu Đường Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (了堂惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1417) quyển 2 có câu: “Nhất ngôn huýnh xuất thanh tiêu ngoại, Tứ Chúng vân trăn tiếu điểm đầu (一言迥出青霄外、四眾雲臻笑點頭, một lời buông tận trời xanh thẳm, Bốn Chúng về đây cười gật đầu).” Hay trong Cẩm Giang Thiền Đăng (錦江禪燈, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1590) quyển 19, phần Huệ Thông (慧聰), lại có đoạn: “Pháp Hoa Kinh Thường Bất Khinh Bồ Tát, bất chuyên độc tụng kinh điển, đản hành lễ bái Tứ Chúng, thượng đắc Lục Căn thanh tịnh, ngã hà vi bất lễ chư Phật Thế Tôn. (法華經常不輕菩薩、不專讀誦經典、但行禮拜四眾、尚得六根清淨、我何爲不禮諸佛世尊, Bồ Tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa, không chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ thực hành lễ bái Bốn Chúng, mà được sáu căn thanh tịnh, ta sao lại không lễ bái các đức Phật Thế Tôn).” (2) Chỉ cho 4 loại đại chúng ngồi nghe đức Phật thuyết pháp, gồm: (a) Phát Khởi Chúng (發起眾), tức là những người có thể biết được thời cơ lúc nào bắt đầu tập hội, hoặc phát khởi tướng kỳ lạ, vấn đáp, v.v., để sắp xếp cho đức Phật thuyết pháp. (b) Đương Cơ Chúng (當機眾), chỉ cho những người có túc duyên thuần thục, chín muồi, thích hợp để nghe chánh giáo, và ngay trong hội đó được xuất gia. (c) Ảnh Hưởng Chúng (影響眾), chỉ chư Phật, Bồ Tát xưa kia, từ phương khác đến giúp đỡ đức Phật giáo hóa, giấu đi quả vị của họ mà thị hiện hình tướng của chúng căn cơ hiện tại, như bóng theo hình, như âm vang ứng với tiếng, để phò trợ đấng Pháp Vương và làm trang nghiêm pháp tòa. (d) Kết Duyên Chúng (結緣眾), chỉ cho những người có phước thiện đời trước mỏng manh, căn cơ lại thấp kém, tuy chưa chứng ngộ được gì, nhưng nhờ nhân duyên gặp được Phật và nghe pháp, mà kết nhân duyên tương lai sẽ xuất gia tu học. (3) Dưới thời đại vua A Dục (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育), đại chúng Phật pháp được phân chia thành 4 loại; 4 chúng này nhân nghị luận về 5 việc của Tỳ Kheo Đại Thiên (s, p: Mahādeva, 大天) mà hình thành nên Thượng Tọa Bộ (s: Sthaviravāda, p: Theravāda, 上座部) và Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部). (a) Long Tượng Chúng (龍象眾), còn gọi là Đại Quốc Chúng (大國眾), chỉ cho dòng phái của Đại Thiên, tức những người phát sinh luận tranh. (b) Biên Bỉ Chúng (邊鄙眾), còn gọi là Ngoại Biên Chúng (外邊眾), chỉ cho môn đồ của Đại Thiên. (c) Đa Văn Chúng (多聞眾), chỉ cho hạng phàm phu chuyên giữ giới, học rộng. (d) Đại Đức Chúng (大德眾), là Thánh chúng chứng 4 quả vị. (4) Chỉ cho 4 chúng là người, trời, rồng và quỷ.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập