Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiên Hải »»
(行譴大王): theo quan niệm tín ngưỡng dân gian của Trung Quốc, có 12 vị Đại Vương Hành Khiển, được gọi là Thập Nhị Hành Khiển Đại Vương (十二行譴大王), cai quản nhân gian. 12 vị ứng với 12 Chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Các Đại Vương này còn được gọi là đương (kim) niên chi thần (當[今]年之神, vị thần của năm nay). Mỗi vị có trách nhiệm thống nhiếp thế gian trong vòng 1 năm, xem xét mọi chuyện tốt xấu của từng người, từng gia đình, từng thôn xã, cho đến từng quốc gia để luận tội và trình tấu lên Ngọc Hoàng Thượng Đế. Bên cạnh mỗi vị Đại Vương, thường có một vị Phán Quan trợ lý. Trong số 12 vị này, có rất nhân đức, độ lượng; có vị cương trực và cũng có vị rất nghiêm khắc. Tương truyền rằng có năm xảy ra loạn lạc, chiến tranh, mất mùa, thiên tai, v.v., cũng do các vị Đại Vương Hành Khiển gây ra để trừng phạt nhân gian. Tên gọi các vị Đại Vương Hành Khiển và Phán Quan như sau:
(1) Năm Tý: Chu Vương Hành Khiển Đại Vương (周王行譴), Thiên Ôn Hành Binh Chi Thần, Lý Tào Phán Quan;
(2) Năm Sửu: Triệu Vương Hành Khiển (趙王行譴), Tam Thập Lục Phương Hành Binh Chi Thần, Tiêu Tào Phán Quan;
(3) Năm Dần: Ngụy Vương Hành Khiển (魏王行譴), Mộc Tinh Chi Thần, Tiêu Tào Phán Quan;
(4) Năm Mão: Trịnh Vương Hành Khiển (鄭王行譴), Thạch Tinh Chi Thần, Liễu Tào Phán Quan;
(5) Năm Thìn: Sở Vương Hành Khiển (楚王行譴), Hỏa Tinh Chi Thần, Biểu Tào Phán Quan;
(6) Năm Tỵ: Ngô Vương Hành Khiển (呉王行譴), Thiên Hải Chi Thần, Hứa Tào Phán Quan;
(7) Năm Ngọ: Tần Vương Hành Khiển (秦王行譴), Thiên Hao Chi Thần, Nhân Tào Phán Quan;
(8) Năm Mùi: Tống Vương Hành Khiển (宋王行譴), Ngũ Đạo Chi Thần, Lâm Tào Phán Quan;
(9) Năm Thân: Tề Vương Hành Khiển (齊王行譴), Ngũ Miếu Chi Thần, Tống Tào Phán Quan;
(10) Năm Dậu: Lỗ Vương Hành Khiển (魯王行譴), Ngũ Nhạc Chi Thần, Cựu Tào Phán Quan;
(11) Năm Tuất: Việt Vương Hành Khiển (越王行譴), Thiên Bá Chi Thần, Thành Tào Phán Quan;
(12) Năm Hợi: Lưu Vương Hành Khiển (劉王行譴), Ngũ Ôn Chi Thần, Nguyễn Tào Phán Quan.
Một trong những ý nghĩa quan trọng của Lễ Giao Thừa là vì tục lệ Việt Nam chúng ta tin rằng mỗi năm có một vị Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để cung tiễn vị cũ ra đi và nghênh đón vị mới đến. Sở dĩ Lễ Giao Thừa được thiết cúng ở ngoài trời là bởi vì các cụ xưa hình dung trong phút vị cựu vương hành khiển bàn giao công việc cho tân vương luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã; thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì cả.
(日經, Nichikyō, 1551-1620): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, vị Tổ đời thứ 27 của Diệu Mãn Tự (妙滿寺), húy là Nhật Kinh (日經); tự Thiện Hải (善海), hiệu là Thường Lạc Viện (常樂院), Thường Đàm Nghĩa Viện (常談義院); xuất thân vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]). Ông từng tham học ở Thượng Tổng, có tài hùng biện và đi truyền đạo khắp nơi trong nước. Năm 1600, ông làm trú trì đời thứ 27 của Diệu Mãn Tự. Đến năm 1608, ông có luận tranh Tông nghĩa với Quách Sơn (廓山, Kakuzan) của Tịnh Độ Tông ở Thành Giang Hộ (江戸城, Edo-jō); nhưng do vì sự đàn áp có kế hoạch của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), nên ông bại luận. Ông bị bắt buộc phải gởi thư đến các ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông để chứng minh về việc ông phản đối cho rằng niệm Phật là đọa Địa Ngục, và nhóm nhật kinh đã bị xử hình hay đuổi ra khỏi tông môn. Trước tác của ông có Tịnh Độ Nhật Liên Tông Luận Ký Lục (淨土日蓮宗論記錄) 1 quyển, Tịnh Độ Tông Nan Cật Nhị Thập Tam Điều (淨土宗難詰二十三條) 1 quyển, Bổn Tích Thắng Liệt Hiện Văn Sự (本迹勝劣現文事) 1 quyển, v.v.
(權現, gongen): quyền (權) nghĩa là quyền nghi, ứng cơ; hiện (現) là hóa hiện; tức chỉ chư phật bồ tát vì độ khắp chúng sanh mà quyền xảo hóa hiện các loại hình tướng; đồng nghĩa với quyền hóa (權化), quyền tích (權迹), ứng hiện (應現), thị hiện (示現), hóa hiện (化現), v.v. Như trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō Vol. 16, No. 665), Phẩm Như Lai Thọ Lượng (如來壽量品) thứ 2, quyển 1 có câu: “Thế Tôn Kim Cang thể, quyền hiện ư Hóa Thân (世尊金剛體、權現於化身, Thế Tôn thể Kim Cang, quyền hiện nơi Hóa Thân).” Hay trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 3, phần Thiệu Hưng Phủ Đông Sơn Giác Thiền Sư (紹興府東山覺禪師), lại có đoạn: “Kim thời tùng lâm, tương vị Quảng Ngạch quá khứ thị nhất Phật, quyền hiện đồ nhi (今時叢林、將謂廣額過去是一佛、權現屠兒, tùng lâm ngày nay cho rằng Quảng Ngạch quá khứ là một vị Phật, hóa hiện làm đồ tể).” Hoặc trong Pháp Hoa Kinh Chỉ Chưởng Sớ (法華經指掌疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 33, No. 631) cũng có đoạn: “Nhiên Đạt Đa tuy xưng quyền hiện, nhân hại Phật cố, bất miễn Địa Ngục chi khổ (然達多雖稱權現。因害佛故。不免地獄之苦, tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa tuy gọi là quyền hiện, nhưng vì hại Phật, nên không thoát khỏi cái khổ của Địa Ngục).” Quyền hiện cũng là một trong những tư tưởng đặc trưng của Phật Giáo Nhật Bản. Sau khi Phật Giáo được vào xứ sở Phù Tang này, Thần Đạo trở thành địa vị phụ thuộc, và đến cuối thời kỳ Bình An (平安, Heian, 794-1185), thuyết gọi là Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, honjisuijaku) bắt đầu thịnh hành. Từ thời Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) trở đi, việc tiếp cận với chư thần của Phật Giáo dần dần được tiến hành. Với tư cách là chúng sanh phàm phu đầy phiền não, chư thần linh cũng tôn kính Phật Giáo; cho nên việc đọc kinh trước thần linh, các Thần Cung Tự (神宮寺), Trấn Thủ Tự (鎭守寺) cũng được kiến lập. Vào khoảng đầu thời Bình An, các thần dần dần khai ngộ và địa vị của họ cũng được nâng cao. Tỷ dụ như trường hợp Thạch Thanh Thủy Bát Phan Thần (石清水八幡神) đã đạt đến danh hiệu Bồ Tát. Sau đó, trong văn thư của Thái Tể Phủ (太宰府, Dazaifu) gởi cho đền thờ Cừ Khi Bát Phan Cung (筥崎八幡宮, Hakozakihachimangū) vào năm 937 (Thừa Bình [承平] thứ 7), có đoạn văn gọi Bát Phan Thần là quyền hiện. Hay trong tác phẩm Tẩu Thang Duyên Khởi (走湯緣起, Sōtōengi) có các văn thư ghi năm 812 (Hoằng Nhân [弘仁] thứ 3) cũng như 904 (Diên Hỷ [延喜] thứ 4), có thể thấy từ quyền hiện. Đến giữa thời Bình An, chư thần tiến đến rất gần với địa vị của Phật. Trong bức Cúng Dường Nguyện Văn (供養願文) do ca nhân Đại Giang Khuông Hành (大江匡衡, Ōe-no-Masahira, 952-1012) viết khi đến tham bái đền thờ Nhiệt Điền Thần Xã (熱田神社, Atsuta Jingū) ở tiểu quốc Vĩ Trương (尾張, Owari) vào năm 1004 (Khoan Hoằng [寬弘] nguyên niên), ông viết là thùy tích của Nhiệt Điền Quyền Hiện (熱田權現, Atsutagongen). Cũng vào năm thứ 4 (1007) cùng niên hiệu trên, trong ống kinh do Đằng Nguyên Đạo Trưởng (藤原道長, Fujiwara-no-Michinaga, 966-1027) đem thờ trên Kim Phong Sơn (金峯山) có ghi dòng chữ “Tạng Vương Quyền Hiện (藏王權現).” Trong bộ Kim Tích Vật Ngữ Tập (今昔物語集, Konjakumonogatarishū) cũng có xuất hiện từ Hùng Dã Quyền Hiện (熊野權現, Kumanogongen). Việc phổ cập hóa tư tưởng quyền hiện như vậy là đồng thể hóa Phật với Thần; và cho biết rằng đã đến thời kỳ hoàn thành thuyết Bản Địa Thùy Tích. Đến thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333), các đền thờ Thần Xã gọi tên quyền hiện bắt đầu xuất hiện như Địa Chủ (地主), Bạch Sơn (白山), Ái Đãng (愛宕), Xuân Nhật (春日), v.v. Trong tác phẩm Chư Thần Bản Hoài Tập (諸神本懷集, Shojinhongaishū) do Tồn Giác (存覺, Zonkaku, 1290-1373) viết vào cuối thời kỳ Liêm Thương, chia thần thành hai loại là Quyền Xã (權社) và Thật Xã (實社), cho rằng Thần của Quyền Xã là “đức Như Lai xưa kia, vì để mang lại lợi ích cho Bồ Tát, chúng sanh thâm vị, nên giả hiện thân hình thần minh”; song tất cả đều là quay về với sự giáng tích của Phật Di Đà; và cho rằng chư thần của Thật Xã thì cần phải bài xích như là tà thần. Thần Đạo mang tính thần Phật tập hợp vào thời Trung Đại, lấy tư tưởng quyền hiện làm luận cứ quan trọng. Tuy nhiên, sau khi Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu, 1542-1616) qua đời, vị tăng của Thiên Thai Tông là Thiên Hải (天海, Tenkai, 1536-1643) chủ trương thờ phụng đấng quyền hiện và xem đó như là thần hiệu của Gia Khang. Ngoài ra, các Thiên Hoàng Nhật Bản đã từng lấy danh hiệu quyền hiện để ban hiệu sắc hứa cho cấp dưới. Tỷ dụ như Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930) đã ban cho Đằng Nguyên Liêm Túc (藤原鎌足, Fujiwara-no-Kamatari, 614-669) hiệu là Đàm Sơn Quyền Hiện (談山權現); hay Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) ban cho Đức Xuyên Gia Khang hiệu là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện (東照大權現), v.v.
(西天): có hai nghĩa chính. (1) Là từ xưng hô của Trung Hoa ngày xưa đối với Ấn Độ. Thời cổ đại, Ấn Độ được gọi là Thiên Trúc (天竺), Tây Trúc (西竺); vốn nằm ở phía Tây Trung Hoa, nên có tên là Tây Thiên. Như trong bài Tích Trượng Ca Tống Minh Sở Thượng Nhân Quy Phật Xuyên (錫杖歌送明楚上人歸佛川) của Hoàng Phủ Tằng (皇甫曾, ?-?) nhà Đường có câu: “Thượng nhân viễn tự Tây Thiên chí, Đầu Đà hạnh biến Nam triều tự (上人遠自西天至、頭陀行遍南朝寺, Thượng nhân xa từ Tây Thiên đến, hạnh Đầu Đà khắp chùa Nam triều).” Hay trong bài thơ Dĩ Thừa Yến Mặc Tặng Tăng Pháp Nhất (以承宴墨贈僧法一) của Triều Xung Chi (晁沖之, ?-?) nhà Tống cũng có câu: “Vương hầu cựu vật nhân kim đắc, cánh tả Tây Thiên bối diệp thư (王侯舊物人今得、更寫西天貝葉書, vương hầu vật cũ nay có được, lại chép Tây Thiên lá bối kinh).” Trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1315) quyển 16, phần Thất Trung Ngữ Yếu (室中語要), lại có đoạn: “Đông Tây Nam Bắc, thất túng bát hoành, triêu đáo Tây Thiên, mộ quy Đường Độ (東西南北、七縱八橫、朝到西天、暮歸唐土, Đông Tây Nam Bắc, bảy dọc tám ngang, sáng đến Tây Thiên [Ấn Độ], tối về Đường Độ [Trung Hoa]).” Hoặc trong Hạt Đường Huệ Viễn Thiền Sư Quảng Lục (瞎堂慧遠禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1360) quyển 1 lại có đoạn: “Tự thử Tây Thiên tứ thất, Đông Độ nhị tam, Phật Phật thọ chi vô cùng, đăng đăng truyền chi bất tận (自此西天四七、東土二三、佛佛授之無窮、燈燈傳之不盡, từ đây Tây Thiên hai tám, Đông Độ sáu vị, Phật Phật truyền thọ vô cùng, đèn đèn nối nhau bất tận).” (2) Đối với tín đồ Tịnh Độ Giáo, từ này chỉ cho thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂) được đề cập trong Kinh A Di Đà.
(宋濂, Sōren, 1309-1380): nhân vật sống dưới thời nhà Minh, xuất thân Phố Giang (浦江), Tỉnh Triết Giang (浙江省), tự Cảnh Liêm (景濂), hiệu là Tiềm Khê (潛溪), Vô Tướng Cư Sĩ (無相居士), Long Môn Tử (龍門子), Tiên Hoa Sanh (仙華生), Bạch Ngưu Sanh (白牛生), Nam Cung Tán Lại (南宮散吏), Nam Sơn Tiều Giả (南山樵者). Lúc nhỏ ông theo học Nho Giáo với Ngô Lai (呉萊), Liễu Quán (柳貫), Hoàng Tiềm (黃潛), v.v., thông hiểu các kinh sử. Trong khoảng thời gian niên hiệu Chí Chánh (至正, 1341-1367), ông được ban tặng hiệu Hàn Lâm Học Sĩ, nhưng sau lui ẩn cư ở Long Môn Sơn (龍門山), chuyên viết sách trong vòng hơn 10 năm. Đến đầu thời nhà Minh, biên tu các sử thư nhà Nguyên, nghiên cứu sâu các điển tịch của thánh hiền, cho nên phần lớn các quy định về lễ nhạc dưới thời nhà Minh đều do ông làm ra. Ông cũng thường đọc Đại Tạng Kinh, khi rảnh rang thì tu tập Thiền quán, cùng với nhà vua thường đàm luận áo nghĩa của kinh điển. Vào năm thứ 13 (1380) niên hiệu Hồng Võ (洪武), nhân chuyện cháu ông là Tống Thận (宋愼) có tội nên bị liên lụy, cả nhà ông phải dời đến Mậu Châu (茂州), khi đi qua Cù Đường (瞿塘), đêm về cùng với vị tăng hàn huyên đạo vị, ông ngồi ngay ngắn y nhiên mà ra đi, hưởng thọ 72 tuổi. Đến thời Võ Tông, ông được ban cho thụy hiệu là Văn Hiến (文憲). Sau này, Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏) thâu tập các văn thư của ông thành cuốn Hộ Pháp Lục (護法錄). Ngoài ra, ông có trước tác Tống Học Sĩ Toàn Tập (宋學士全集) 33 quyển, Long Môn Tử (龍門子), Phố Dương Nhân Vật Ký (浦陽人物記), Thiên Hải Loại Biên (篇海類編), Tiềm Khê Tập (潛溪集), v.v.
(長樂寺, Chōraku-ji): ngôi tự viện của Thiên Thai Tông, là nơi phát xuất của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa); hiện tọa lạc tại Serada-chō (世良田町), Ōta-shi (太田市), Gunma-ken (群馬縣); hiệu núi là (世良田山). Tượng thờ chính của chùa là Thích Ca Như Lai. Vào năm thứ 3 (1221) niên hiệu Thừa Cửu (承久), thể theo sắc nguyện của Hậu Điểu Vũ Thượng Hoàng (後鳥羽上皇), con của Tân Điền Nghĩa Trọng (新田義重, Nitta Yoshishige) là Đức Xuyên Nghĩa Quý (德川義季, Tokugawa Yoshisue, hay Thế Lương Điền Nghĩa Quý [世良田義季, Serada Yoshisue]) kiến lập chùa này tại vùng đất Thế Lương Điền (世良田, Serada), rồi cung thỉnh Vinh Triêu (榮朝, Eichō), cao đệ của Vinh Tây (榮西, Eisai) đến làm Tổ khai sơn chùa. Ban đầu, đây là đạo tràng kiêm tu cả Thiền Lâm Tế và Mật Giáo; là ngôi chùa rất hưng thịnh của dòng họ Thế Lương Điền. Dưới thời đại Liêm Thương, trong phạm vi 250 mét vuông, ở bốn phương có một số ngôi tháp miếu như Đại Quang Am (大光庵) của Vinh Triêu, Chánh Truyền Am (正傳庵), Phổ Quang Am (普光庵), Vạn Tượng Am (萬象庵), v.v. Trong khoảng thời gian niên hiệu Chánh Hòa (正和, 1312-1317), chùa bị hỏa tai nên cháy rụi hoàn toàn; nhưng nhờ sự trợ duyên của Đại Cốc Đạo Hải (大谷道海) cũng như hai người con gái, chùa được kiến lập lại như cũ. Đến năm thứ 17 (1612) niên hiệu Khánh Trường (慶長), chùa được đổi thành cơ sở của Thiên Thai Tông. Về sau, thể theo lời phát nguyện của Thiên Hải (天海, Tenkai), vị tăng của Thiên Thai Tông, dưới thời tướng quân Đức Xuyên Gia Quang (德川家光, Tokugawa Iemitsu), Đông Chiếu Cung (東照宮, Tōshōgū) được dời về phía Tây Nam trong khuôn viên chùa, tại vị trí của Phổ Quang Am.
(爲霖道霈, Irin Dōhai, 1615-1702): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Vi Lâm (爲霖), hiệu Lữ Bạc (旅泊), Phi Gia Tẩu (非家叟), xuất thân Kiến An (建安), Tỉnh Phúc Kiến (福建省). Năm 14 tuổi, ông xuất gia ở Bạch Vân Tự (白雲寺) và năm sau học kinh luận. Năm 18 tuổi, ông đến viếng thăm Quảng Ấn (廣印) ở Bảo Thiện Tự (寳善寺), Phần Thường (汾常), rồi theo sự hướng dẫn của vị này ông đến thăm Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢), hầu hạ nhân vật này mấy năm, nhưng sau ông lại đến tham vấn Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟) ở Thiên Đồng Sơn (天童山), được đại ngộ song Mật Vân không hứa khả cho. Ông lại đem sở chứng này trình cho Nguyên Hiền, nhưng cũng không được công nhận. Vì vậy, ông giã từ thầy đi du phương tham học, kết am ở Bách Trượng Sơn (百丈山), chuyên tu tịnh nghiệp với mẫu thân trong vòng 5 năm và đến năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông lại theo tham học với Nguyên Hiền ở Cổ Sơn (鼓山), cuối cùng được thầy ấn khả cho. Năm sau, ông lui về ẩn cư tại Quảng Phước Am (廣福菴) ở Kiến Ninh (建寧). Đến năm thứ 14 cùng niên hiệu trên, ông làm Thủ Tòa của Cổ Sơn, và đến năm sau khi Nguyên Hiền qua đời, ông kế thừa sự nghiệp thầy và bắt đầu thăng tòa thuyết pháp. Sống được nơi đây 14 năm, ông lại hạ sơn và sống cuộc đời phiêu bạc, nhưng vì Cổ Sơn không có ai lãnh đạo nên ông lại phải trở về. Vào năm thứ 41 niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Ông có để lại một số trước tác như Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bỉnh Phất Ngữ Lục (爲霖道霈禪師秉拂語錄) 2 quyển, Xan Hương Lục (餐香錄) 2 quyển, Hoàn Sơn Lục (還山錄) 4 quyển, Pháp Hội Lục (法會錄) 1 quyển, Lữ Bạc Am Cảo (旅泊菴稿) 4 quyển. Bên cạnh đó, ông còn biên tập bản Thiền Hải Thập Trân (禪海十珍) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập