Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thiên Cung »»
(北帝): tiếng gọi tắt của Huyền Thiên Thượng Đế (玄天上帝), Bắc Phương Chơn Võ Huyền Thiên Thượng Đế (北方眞武玄天上帝), Chơn Võ Đại Đế (眞武大帝), Huyền Thiên Thượng Đế (玄天上帝), Huyền Võ Đại Đế (玄武大帝), Bắc Cực Đại Đế (北極大帝), Bắc Cực Hựu Thánh Chơn Quân (北極佑聖眞君), Khai Thiên Đại Đế (開天大帝), Nguyên Võ Thần (元武神); dân gian thường gọi là Thượng Đế Công (上帝公, Ông Thượng Đế), Thượng Đế Da (上帝爺, Lão Thượng Đế), v.v. Ông tượng trưng cho sao Bắc Cực, là vị thần của Đạo Giáo, quản lý phương Bắc, thống lãnh thủy tộc (kiêm cả Thủy Thần). Vì ông thuộc màu đen trong 5 màu ở phương Bắc, nên còn có tên là Hắc Đế (黑帝). Huyền Thiên Thượng Đế còn là vị thần trấn hộ quốc gia của thời nhà Minh (1368-1662); cho nên các quan lại có lập nhiều miếu thờ vị thần này. Về lai lịch của ông, căn cứ vào Thái Thượng Thuyết Huyền Thiên Đại Thánh Chơn Võ Bổn Truyện Thần Chú Diệu Kinh (太上說玄天大聖眞武本傳神咒妙經) cho biết rằng Huyền Thiên Thượng Đế là hóa thân thứ 82 của Thái Thượng Lão Quân (太上老君), thác sanh nơi Đại La Cảnh Thượng Vô Dục Thiên Cung (大羅境上無慾天宮), con của Quốc Vương Tịnh Lạc (凈樂國王) và Hoàng Hậu Thiện Thắng (善勝皇后). Hoàng Hậu nằm mộng thấy ăn mặt trăng, đến khi tỉnh dậy thì mang thai, trãi qua 14 tháng và hơn 400 ngày thì hạ sanh ông trong vương cung. Sau khi trưởng thành, từ giã song thân, lên tu đạo trên Võ Đương Sơn (武當山), trãi qua 42 năm thì công thành quả mãn. Nhân đó, Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) có chiếu chỉ, phong cho ông là Thái Huyền (太玄), trấn thủ ở phương Bắc. Theo Hựu Thánh Chú (佑聖咒) gọi Huyền Thiên Thượng Đế là do “Thái Âm hóa sanh, Thủy Vị chi tinh, Hư Nguy thượng ứng, quy xà hợp hình, châu hành Lục Hợp, uy nhiếp vạn linh (太陰化生、水位之精、虛危上應、龜蛇合形、周行六合、威懾萬靈, Thái Âm hóa sinh, tinh của Thủy Vị, trên hợp với Hư Nguy, hình kết hợp của rùa rắn, đi khắp Sáu Cõi, uy nhiếp vạn loài).” Nhân vì Bắc Đế thuộc về thủy, nên có thể trị thủy, hàng thủy, giải trừ các tai họa về nước lửa. Các đền thờ vị thần này được kiến lập trong cung nội dưới thời nhà Minh, đều để cầu nguyện cho giải trừ mọi tai họa về nước lửa. Vì Bắc Đế có công lao dẹp trừ, tiêu diệt quy tinh, thuồn luồn dưới chân mình, nên được Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho là Huyền Thiên Thượng Đế. Ông là người thống lãnh thủy giới an toàn, có thể hướng dẫn cho tàu bè đi lại đúng phương hướng, chẳng bị lạc hướng trên biển. Còn Huyền Võ (玄武) là tên gọi chung của 7 ngôi sao ở phương Bắc trong Nhị Thập Bát Tú (二十八宿). Trong Sở Từ (楚辭), Thiên Viễn Du (遠遊) của Khuất Nguyên (屈原, 304-278 tcn) có câu: “Chiêu Huyền Võ nhi bôn thuộc (召玄武而奔屬, mời Huyền Võ đến hộ vệ).” Hình của Huyền Võ như rùa rắn, nên có lời chú giải rằng: “Huyền Võ vị quy xà, vị tại Bắc phương, cố viết Huyền; thân hữu lân giáp, cố viết Võ (玄武謂龜蛇、位在北方、故曰玄、身有鱗甲、故曰武, Huyền Võ có nghĩa là rùa rắn, an vị ở phương Bắc, nên gọi là Huyền; thân nó có giáp lân, nên gọi là Võ).” Trong khoảng niên hiệu Khai Bảo (開寶, 968-976) nhà Bắc Tống (北宋, 960-1127), Thần Huyền Võ giáng xuống Chung Nam Sơn (終南山). Vào năm thứ 6 (981) niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc (太平興國), ông được phong là Dực Thạnh Tướng Quân (翌盛將軍). Đến năm thứ 7 (1014) niên hiệu Đại Trung Tường Phù (大中祥符, 1008-1016) đời vua Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), ông được phong thêm là Dực Thánh Bảo Đức Chơn Quân (翌聖保德眞君). Về sau, để tránh tên húy của Thánh Tổ Triệu Huyền Lãng (聖祖趙玄朗), Huyền Võ được đổi thành Chơn Võ. Ngày sinh của Huyền Thiên Thượng Đế là mồng 3 tháng 3 âm lịch. Theo truyền thuyết của Đài Loan, ông không phải là vương tử, mà là người đồ tể. Có hôm nọ, chàng đồ tể được thần minh mách bảo, nhất định từ bỏ không làm nghề đó nữa, cải tâm tu đạo, mổ bụng mình đem vất xuống sông và nhờ quyết tâm đó mà đắc đạo. Sau khi chứng đạo, bụng ông biến thành rùa tiên, ruột biến thành rắn tiên; cả hai tác quái khắp nơi. Nhân đó, Huyền Thiên Thượng Đế bèn mượn cây bảo kiếm của Bảo Sanh Đại Đế (保生大帝, có thuyết là mượn của Lữ Đồng Tân [呂洞賓]) để trấn áp hai tiên đó và cuối cùng thâu phục được. Sau đó, vì sợ hai con rùa rắn này không chịu quy phục, Huyền Thiên Thượng Đế cứ cầm kiếm canh giữ mãi mà không chịu hoàn trả cho Bảo Sanh Đại Đế. Cho nên, nơi tượng thờ Huyền Thiên Thượng Đế ở Đài Loan, ông có chân đỏ, đạp lên hai con rùa rắn, tay cầm chặt cây bảo kiếm. Cũng trên cơ sở của truyền thuyết này, tại Đài Loan, các nơi chế biến thịt, công ty đồ tể, thảy đều phụng thờ Huyền Thiên Thượng Đế làm vị thần bảo hộ cho công việc của họ. Minh Thành Tổ (明成祖, tại vị 1402-1424) đã từng đại tu các ngôi miếu vũ của Võ Đương, trong bức thư sắc chỉ kiến tạo Tử Vân Đình (紫雲亭), ông có ghi rằng: “Tịnh Lạc Quốc chi đông, hữu Tử Vân Đình, nãi Huyền Võ Đế giáng sanh chi phước địa (淨樂國之東、有紫雲亭、乃玄武帝降生之福地, phía đông Tịnh Lạc Quốc, có Tử Vân Đình, là vùng đất phước giáng sanh của Huyền Võ Đế).”
(白兔): thỏ trắng, xưa kia người ta xem con thỏ trắng là điềm báo trước cho hòa bình. Nó còn có nghĩa là mặt trăng, dựa trên truyền thuyết cho rằng trên mặt trăng có con thỏ trắng, đồng nghĩa với Ngọc Thố (玉兔, thỏ ngọc). Trong truyện cổ tích về Hằng Nga của Việt Nam, Bạch Thố là con Thỏ Ngọc Trắng giã thuốc tiên. Theo dân gian Việt Nam cũng cho rằng Bạch Thố là cái bóng trên mặt trăng, còn được gọi là Thiềm Thừ (蟾蜍, con cóc). Thơ Hồ Xuân Hương (khoảng cuối tk 18 và đầu tk 19) có câu rằng: “Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi, hở chị Hằng Nga đã mấy con ?” Trong bài thơ “Bả Tửu Vấn Nguyệt (把酒問月, Mượn Rượu Hỏi Trăng)” của thi hào Trung Quốc, Lý Bạch (李白, 701-762), cũng có đoạn rằng: “Bạch Thố đảo dược thu phục xuân, Thường Nga cô thê dữ thùy lân (白兔擣藥秋復春、嫦娥孤棲與誰鄰, Thỏ Trắng giã thuốc thu lại xuân, Hằng Nga giường lẽ có ai thương ?)”. Trong dân gian lưu truyền nhiều truyền thuyết về Ngọc Thố như:
(1) Trong cung trăng có một con thỏ ngọc màu trắng, đó chính là hóa thân của Thường Nga (嫦娥, tức Hằng Nga). Nhân sau khi Hằng Nga đùa giỡn với mặt trăng xong, xúc phạm đến Ngọc Đế, cho nên làm cho nàng biến thành con thỏ ngọc; cứ mỗi độ trăng tròn, thường ở tại cung trăng mà giã thuốc để trừng phạt.
(2) Tương truyền có 3 vị thần tiên, hóa thân thành 3 lão già rất đáng thương, thường nhắm chồn cáo, khỉ và thỏ để xin ăn. Chồn cáo và khỉ thì lấy thức ăn tiếp tế cho mấy ông lão, chỉ có thỏ thì không cho mà còn đem thức ăn ném vào trong lửa nóng rồi bỏ đi. Nhân đó, chư vị thần tiên bèn bắt thỏ tống vào Quảng Hàn Cung (廣寒宮) và trở thành thỏ ngọc. Từ đó về sau, thỏ ngọc thường làm bạn với Hằng Nga ở Quảng Hàn Cung, chuyên giã chế thuốc trường sanh bất lão.
(3) Xưa kia, có một con thỏ tu hành đã ngàn năm, đắc đạo thành tiên. Nó có 4 con thỏ cái rất dễ thương, mỗi con đều trắng tinh và lanh lợi. Một hôm nọ, Ngọc Hoàng Đại Đế (玉皇大帝) cho mời con thỏ đực lên Thiên Cung. Chú thỏ liền từ bỏ vợ con, đạp mây bay lên Thiên Cung. Ngay khi mới đến Nam Thiên Môn, chú thỏ thấy Thái Bạch Kim Tinh cùng các tướng trời đang giải giáp Hằng Nga đi ngang qua. Thỏ tiên chẳng biết chuyện gì xảy ra, bèn hỏi vị thiên thần đang canh gác cổng trời. Nghe xong, thỏ tiên mới biết Hằng Nga bị tội oan, biết sức mình không làm gì được, lại thương cho Hằng Nga phải chịu cảnh cô đơn, lạnh lẽo trong cung trăng, chẳng có ai bầu bạn, rồi chợt nhớ đến vợ con mình, nên thỏ tiên liền bay trở về nhà. Thỏ tiên đem câu chuyện gặp Hằng Nga kể lại cho vợ thỏ nghe và khuyên nên đưa một đứa con lên làm bạn với Hằng Nga. Mặc dù được sự đồng tình của vợ thỏ, mấy thỏ con vẫn không chịu rời xa cha mẹ; nên con nào cũng khóc lóc thảm thiết. Thấy vậy, thỏ tiên bảo rằng: “Nếu như ta cô độc như vậy, các con có đến bầu bạn với ta chăng ? Hằng Nga đã vì bá tánh mà phải chịu lụy hình, chúng ta không biết cảm thương sao ? Này các con ! Chúng ta không nên chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thôi.” Sau khi hiểu được tâm nguyện của cha, bầy thỏ con phát nguyện ra đi. Cả nhà quyết định nhường cho con thỏ nhỏ nhất ra đi. Từ đó, thỏ con lên cung trăng làm bạn hằng ngày với Hằng Nga.
(4) Có thuyết khác cho rằng thỏ ngọc là Hậu Nghệ (后羿). Nhân khi Hằng Nga chơi với mặt trăng, lại nhớ đến Hậu Nghệ; thấy Hậu Nghệ tình nguyện biến thành một con động vật rất dễ thương là thỏ ngọc để làm cho nàng được vui; nhưng tiếc thay Hằng Nga vẫn không biết chính con thỏ ngọc là Hậu Nghệ mà ngày đêm mình thương nhớ. Trong Nghĩ Thiên Vấn (擬天問) của Phó Huyền (傅玄) nhà Tấn có câu: “Nguyệt trung hà hữu, bạch thố đảo dược (月中何有、白兔擣藥, Trong trăng có gì, thỏ trắng giã thuốc)”. Thuyết cho rằng “có thỏ ngọc” đã được lưu truyền trong dân gian từ lâu. Cho nên, xưa kia, cứ mỗi dịp tháng 8 Trung Thu, trên các đường phố đều có bán các đồ chơi như “ông thỏ con (兔兒爺)”, “thỏ ngọc giã thuốc (玉兔擣藥)”, “thố sơn (兔山)”, v.v. Trong dân gian vẫn thường dùng từ “bạch thố xích ô (白兔赤烏, thỏ trắng quạ đỏ)” để ví dụ cho thời gian trôi qua rất nhanh.
Như trong bài thơ Khuyến Tửu Thi (勸酒詩) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có câu: “Thiên địa điều diêu tự trường cửu, bạch thố xích ô tương sấn tẩu (天地迢遙自長久、白兔赤烏相趁走, trời đất xa xăm vốn dài lâu, thời gian thấm thoắt trôi qua mau).”
(本證妙修): nghĩa là sự tu hành lập cước trên sự chứng nhộ gốc. Thông thường thì sự tu hành vốn phát xuất từ địa vị phàm phu, và kẻ phàm phu tu hành để đạt đến quả vị Phật; nhưng Đạo Nguyên (道元, Dōgen) thì lại cho rằng tu hành vốn lập cước trên bản chứng chính là tu hành, không phải tu hành để đạt đến quả vị Phật, mà chính việc tu hành là hạnh của Phật. Vì việc tu hành này chính là Tọa Thiền, nên Tọa Thiền không phải là chờ đợi sự chứng ngộ, mà chính việc Tọa Thiền cũng là hạnh của chư Phật. Chính vì lẽ đó, sự tu hành lập cước trên bản chứng được gọi là diệu tu, và đồng nghĩa với pháp môn của Chỉ Quản Đả Tọa (祗管打坐, shikantaza).
(s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇa-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga,八正道 hay 八聖道): là 8 con đường chân chánh, đúng đắn để cầu về cõi Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃), còn gọi là Bát Thánh Đạo (八聖道), Bát Chi Chánh Đạo (八支正道), Bát Thánh Đạo Phần (八正道分), Bát Đạo Hạnh (八道行), Bát Trực Hạnh (八直行), Bát Chánh (八正), Bát Đạo (八道), Bát Chi (八支), Bát Pháp (八法), Bát Lộ (八路). Đây là pháp môn thật tiễn, tiêu biểu nhất của Phật Giáo, là phương pháp hay con đường tắt chính xác để hướng đến giải thoát, Niết Bàn. Khi đức Phật tuyên thuyết bài pháp đầu tiên, ngài đã dạy nên xa lìa hai thái cực thọ hưởng dục lạc và tu khổ hạnh, nên hướng về con đường Trung Đạo, tức ám chỉ pháp môn Bát Chánh Đạo này, gồm:
(1) Chánh Kiến (s: samyag-dṛṣṭi, p: sammā-diṭṭhi, 正見): hay còn gọi là Đế Kiến (諦見), tức thấy khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo (Tứ Đế), có nghiệp thiện ác thì có quả báo của nghiệp thiện ác ấy, có đời này đời kia, có cha mẹ, trên đời có bậc chân nhân đến chỗ an lành, bỏ điều thiện cũng như hướng đến điều thiện, nơi đời này và đời kia tự giác ngộ và tự chứng thành tựu.
(2) Chánh Tư Duy (s: samyak-saṃkalpa, p: sammā-saṅkappa, 正思惟): hay còn gọi là Chánh Chí (正志) Chánh Phân Biệt (正分別), Chánh Giác (正覺), nghĩa là suy nghĩ đúng đắn, chân chánh. Khi đã thấy được lý của Tứ Đế, hành giả tư duy để làm cho tăng trưởng trí tuệ chân thật. Nó lấy tâm vô lậu làm thể.
(3) Chánh Ngữ (s: samyag-vāc, p: sammā-vācā, 正語): còn gọi là Chánh Ngôn (正言), Đế Ngôn (諦言), tức xa lìa nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, dùng trí tuệ để sửa đổi khẩu nghiệp, không nói những lời phi lý. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(4) Chánh Nghiệp (s: samyakkarmanta, p: sammā-kammanta, 正業): còn gọi là Chánh Hạnh (正行), Đế Hạnh (諦行), tức xa lìa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, v.v., dùng trí tuệ đúng đắn để trừ tất cả những việc làm không đúng của thân và sống với thân trong sạch. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(5) Chánh Mạng (s: samyag-ājīva, p: sammā-ājīva, 正命): còn gọi là Đế Thọ (諦 受), tức xả bỏ cuộc sống không đúng như dùng chú thuật, v.v., và mong cầu đúng pháp những vật dụng trong sinh hoạt hằng ngày như áo quần, thức ăn uống, giường ghế, thuốc men, v.v. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(6) Chánh Tinh Tấn (s: samyag-vyāyāma, p: sammā-vāyāma, 正精進): còn gọi là Chánh Phương Tiện (正方便), Chánh Trị (正治), Đế Pháp (諦法), Đế Trị (諦法), tức phát nguyện đoạn trừ các điều ác mình đã tạo, làm cho không sinh khởi những điều ác mà mình chưa làm, làm cho sinh khởi những điều thiện mà mình chưa làm, và làm cho tăng trưởng những điều thiện mà mình đã từng làm. Nó lấy sự siêng năng vô lậu làm thể.
(7) Chánh Niệm (s: samyak-smṛti, p: sammā-sati, 正念): còn gọi là Đế Ý (諦意), tức quán 4 đối tượng thân, thọ, tâm và pháp, lấy trí tuệ chân chánh nghĩ nhớ đến chánh đạo để dẹp trừ các suy nghĩ không đúng. Nó lấy niệm vô lậu làm thể.
(8) Chánh Định (s: samyak-samādhi, p: sammā-samādhi, 正定): còn gọi là Đế Định (諦定), dùng trí tuệ chân chánh để nhập vào Thiền định thanh tịnh vô lậu, xa lìa các pháp bất thiện, thành tựu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.
Bát Chánh đạo này có công lực làm cho chúng sanh từ bờ bên này của cõi mê sang qua được bờ bên kia của giác ngộ. Cho nên nó lấy thuyền, bè làm lời thệ nguyện. Ngược lại, Tà Kiến (邪見, thấy không đúng), Tà Tư (邪思, suy nghĩ không đúng), Tà Ngữ (邪語, nói lời không đúng), Tà Nghiệp (邪業, làm việc không đúng), Tà Mạng (邪命, sống không đúng), Tà Tinh Tấn (邪精進, tinh tấn không đúng), Tà Niệm (邪念, nghĩ nhớ không đúng), Tà Định (邪定, định không đúng) được gọi là Bát Tà (八邪, tám pháp không đúng).
(眞然, Shinzen, 804/812?-898): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, Tự Trưởng đời thứ 6 của Đông Tự (東寺, Tō-ji), húy là Chơn Nhiên (眞然), thường gọi là Trung Viện Tăng Chánh (中院僧正), Hậu Tăng Chánh (後僧正), xuất thân vùng Đa Độ (多度, Tado), Tán Kì (讚岐, Sanuki), họ Tá Bá (佐伯). Ban đầu ông theo hầu Không Hải (空海, Kūkai), rồi đến năm 831 thì thọ phép Quán Đảnh với Chơn Nhã (眞雅, Shinga), đến năm 834 thì được Không Hải phó chúc cho xây dựng già lâm ở Cao Dã Sơn. Năm 836, ông cùng với Chơn Tế (眞濟, Shinzei) có ý định sang nhà Đường cầu pháp, nhưng vì phong ba bão táp dữ dội nên sự việc bất thành, cuối cùng vào năm này ông đến trú tại Thái Long Tự (太龍寺) ở vùng A Ba (阿波, Awa) và soạn bản duyên khởi của chùa này. Năm 861, ông làm đơn xin mượn bộ Tam Thập Thiếp Sách Tử (三十帖册子) để xem. Vào năm 883 thì được cử làm Quyền Thiếu Tăng Đô. Đến năm sau, ông làm Tự Trưởng đời thứ 6 của Đông Tự, rồi đến năm 889, do vì ông mang bộ sách này về Cao Dã Sơn, nên từ đó tạo sự phân tranh với Đông Tự. Suốt trong 56 năm tận lực chỉnh bị cho Cao Dã Sơn, ông đã dưỡng thành một số đệ tử nổi danh như Thọ Trường (壽長), Vô Không (無空), Duy Thủ (惟首), Thánh Bảo (正寶), v.v. Trước tác của ông để lại có Vô Chướng Kim Cang Thứ Đệ (無障金剛次第) 1 quyển, Nhiếp Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Niệm Tụng Pháp (攝一切佛頂輪王念誦法) 1 quyển, Chơn Nhiên Tăng Chánh Ký (眞然僧正記) 1 quyển, Hoan Hỷ Thiên Cúng Pháp (歡喜天供法) 1 quyển, v.v.
(s, p: dāna, 檀那): còn gọi là Đà Na (柁那), Đán Na (旦那), Đà Nẵng (馱曩), Đàn (檀); ý dịch là thí (施, cho, ban phát), bố thí (布施), tức lấy tâm từ bi mà ban phát phước lợi cho tha nhân; cả Phạn Hán cùng gọi là Đàn Thí (檀施), Đàn Tín (檀信). Những tín đồ cúng dường y thực cho tăng chúng, hay xuất tiền tài để tiến hành pháp hội, tu hạnh bố thí được gọi là Thí Chủ (s: dānapati, 施主); âm dịch là Đàn Việt (檀越), Đà Na Bát Để (陀那鉢底), Đàn Na Ba Để (檀那波底), Đà Na Bà (陀那婆); cả Phạn Hán đều gọi chung là Đàn Việt Thí Chủ (檀越施主), Đàn Na Chủ (檀那主), Đàn Chủ (檀主). Trong Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập (翻譯名義集) quyển 1 có giải thích rằng: “Đàn Na hựu xưng Đàn Việt; Đàn tức thí; thử nhân hành thí, việt bần cùng hải, cố xưng Đàn Việt; tâm sanh xả pháp, năng phá xan tham, thị vi Đàn Na (檀那又稱檀越、檀卽施、此人行施,越貧窮海、故稱檀越、心生捨法、能破慳貪、是爲檀那, Đàn Na còn gọi là Đàn Việt; Đàn tức là bố thí; người này hành bố thí, vượt qua biển bần cùng; nên gọi là Đàn Việt; tâm sanh khởi pháp xả bỏ, có thể phá tan sự tham lam, keo kiệt, đó là Đàn Na).” Theo Thiện Sanh Kinh (善生經) của Trường A Hàm (長阿含經) quyển 11 có đoạn rằng: “Đàn Việt đương dĩ ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Vân hà vi ngũ ? Nhất giả thân hành từ, nhị giả khẩu hành từ, tam giả ý hành từ, tứ giả dĩ thời thí, ngũ giả môn bất chế chỉ. Thiện Sanh, nhược Đàn Việt dĩ thử ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn đương phục dĩ lục sự nhi giáo thọ chi. Vân hà vi lục ? Nhất giả phòng hộ bất linh vi ác, nhị giả chỉ thọ thiện xứ, tam giả giáo hoài thiện tâm, tứ giả sử vị văn giả văn, ngũ giả dĩ văn năng sử thiện giải, lục giải khai thị thiên lộ (檀越當以五事供奉沙門、婆羅門、云何爲五、一者身行慈、二者口行慈、三者意行慈、四者以時施、五者門不制止、善生、若檀越以此五事供奉沙門、婆羅門、沙門、婆羅門當復以六事而敎授之、云何爲六、一者防護不令爲惡、二者指授善處、三者敎懷善心、四者使未聞者聞、五者已聞能使善解、六者開示天路, Thí chủ nên lấy năm việc để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Thế nào là năm ? Một là thân hành từ bi, hai là miệng hành từ bi, ba là ý hành từ bi, bốn là cúng dường đúng thời, năm là cổng không đóng dừng. Này Thiện Sanh ! Nếu Thí chủ lấy năm việc trên để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn phải lấy sáu việc để giáo hóa lại cho họ. Thế nào là sáu ? Một là phòng ngừa, bảo hộ không khiến cho làm điều ác; hai là chỉ bày, truyền trao nơi tốt lành; ba là dạy họ luôn nhớ tâm lành; bốn là khiến cho người chưa nghe được nghe; năm là người được nghe có thể khiến cho khéo hiểu rõ; sáu là khai thị rõ đường lên trời).” Lại theo Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 24 cho biết rằng vị Thí Chủ Đàn Việt tùy thời mà bố thí, cúng dường thì sẽ có 5 công đức:
(1) Tiếng tăm vang khắp bốn phương và mọi người đều hoan hỷ, vui mừng;
(2) Nếu sanh làm thân chúng sanh, không mang tâm xấu hổ và cũng không có sự sợ hãi;
(3) Được mọi người kính ngưỡng, người thấy cũng sanh tâm hoan hỷ;
(4) Sau khi mạng hết, hoặc sanh lên cõi Trời, được chư Thiên Cung kính; nếu sanh trong cõi người, cũng được người tôn quý;
(5) Trí tuệ xuất chúng, thân hiện đời hết lậu hoặc, chẳng trãi qua đời sau.
Món cháo do Thí Chủ cúng dường cho đại chúng được gọi là Đàn Na Chúc (檀那粥). Như trong Oánh Sơn Thanh Quy (瑩山清規) quyển Thượng, phần Nguyệt Trung Hành Sự (月中行事) của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin, 1268-1325), Tổ khai sơn Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Năng Đăng (能登, Noto), có câu: “Đàn Na Chúc, thán kệ như tiền, kim thần tịnh chúc nhất đường, phụng vị bổn tự Đàn Na thập phương Thí Chủ phước thọ trang nghiêm, ngưỡng bằng tôn chúng niệm (檀那粥、歎偈如前、金晨淨粥一堂、奉爲本寺檀那十方施主福壽莊嚴、仰憑尊眾念, Cháo Đàn Na, kệ tán thán như trước, hôm nay cháo chay một nhà, kính vì cầu chúc Đàn Na chùa này, Thí Chủ mười phương được phước thọ trang nghiêm, ngưỡng mong đại chúng tưởng niệm).” Đặc biệt, tại Nhật Bản, ngôi chùa sở thuộc nhà Đàn Việt được gọi là Đàn Na Tự (檀那寺, Danna-dera) hay Đán Na Tự (旦那寺, Danna-dera); hay còn có nghĩa là ngôi chùa ban pháp cho bản thân mình, hoặc là ngôi chùa do mình cúng dường và duy trì. Từ này xuất hiện trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永, 1624-1644), khi tiến hành đàn áp Thiên Chúa Giáo. Đàn Na Tự còn gọi với tên khác là Bồ Đề Tự (菩提寺), Hương Hoa Viện (香華院).
(s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利): tức Đao Lợi Thiên (忉利天, Trời Đao Lợi), âm dịch là Đa La Dạ Đăng Lăng Xá (多羅夜登陵舍), còn gọi là Tam Thập Tam Thiên (三十三天, Trời Ba Mươi Ba). Theo vũ trụ quan Phật Giáo, cõi trời này nằm ở tầng thứ 2 của 6 cõi trời Dục Giới, là thiên giới do Trời Đế Thích (帝釋天) cư ngụ, ở trên đỉnh núi Tu Di (s: Sumeru, 須彌山). Bốn phương trên đỉnh Tu Di có 8 thành trời, cọng thêm ở giữa có Thiện Kiến Thành (善見城, hay Hỷ Kiến Thành [喜見城]) của Trời Đế Thích), tổng cọng là 33 trú xứ, nên có tên gọi như vậy. Theo Chánh Pháp Niệm Xứ Kinh (正法念處經) quyển 25, 33 cõi trời có các tên gọi khác nhau, gồm: Trú Thiện Pháp Đường Thiên (住善法堂天), Trú Phong Thiên (住峯天), Trú Sơn Đảnh Thiên (住山頂天), Thiện Kiến Thành Thiên (善見城天), Bát Tư Địa Thiên (鉢私地天), Trú Câu Tra Thiên (住倶吒天), Tạp Điện Thiên (雜殿天), Trú Hoan Hỷ Viên Thiên (住歡喜園天), Quang Minh Thiên (光明天), Ba Lợi Da Đa Thọ Viên Thiên (波利耶多樹園天), Hiểm Ngạn Thiên (險岸天), Trú Tạp Hiểm Ngạn Thiên (住雜險岸天), Trú Ma Ni Tạng Thiên (住摩尼藏天), Toàn Hành Địa Thiên (旋行地天), Kim Điện Thiên (金殿天), Man Ảnh Xứ Thiên (鬘影處天), Trú Nhu Nhuyễn Địa Thiên (住柔軟天), Tạp Trang Nghiêm Thiên (雜莊嚴天), Như Ý Địa Thiên (如意地天), Vi Tế Hành Thiên (微細行天), Ca Âm Hỷ Lạc Thiên (歌音喜樂天), Uy Đức Luân Thiên (威德輪天), Nguyệt Hành Thiên (月行天), Diêm Ma Bà La Thiên (閻魔婆羅天), Tốc Hành Thiên (速行天), Ảnh Chiếu Thiên (影照天), Trí Tuệ Hành Thiên (智慧行天), Chúng Phân Thiên (眾分天), Trú Luân Thiên (住輪天), Thượng Hành Thiên (上行天), Uy Đức Nhan Thiên (威德顔天), Uy Đức Diệm Luân Thiên (威德燄輪天), và Thanh Tịnh Thiên (清淨天). Chúng hữu tình trên cõi trời Đao Lợi có thân dài một do tuần, thọ mạng 1.000 tuổi (100 năm trên cõi thế bằng 1 ngày 1 đêm trên cõi trời này), ăn các thức ăn trong sạch. Khi mới sanh ra, con người ở đây giống như hình dạng đứa bé 6 tuổi của cõi người, sắc diện tròn đầy, áo quần tự có. Hơn nữa, cõi trời này có đầy đủ các loại châu báu, những lầu đài, trang viên, hồ tắm tráng lệ, v.v. Từ xưa, tín ngưỡng cho rằng Đao Lợi Thiên là trú xứ của Trời Đế Thích, đã thịnh hành tại Ấn Độ. Tương truyền sau khi qua đời, Hoàng Hậu Ma Da thác sanh lên cõi trời này; cho nên, sau khi thành đạo, đức Phật đã lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho mẫu thân trong vòng 3 tháng. Sự việc này được ghi lại rất rõ trong Phật Thăng Đao Lợi Thiên Vị Mẫu Thuyết Pháp Kinh (佛昇忉利天爲母說法經, Taishō No. 815), hay trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh (地藏菩薩本願經, Taishō No. 412), Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông Phẩm (忉利天宮神通品). Bên cạnh đó, trong Phật Quốc Ký (佛國記) của Pháp Hiển (法顯, 340?-?) nhà Tấn có câu: “Phật thướng Đao Lợi Thiên tam nguyệt, vị mẫu thuyết pháp (佛上忉利天三月、爲母說法, đức Phật lên cung Trời Đao Lợi ba tháng, vì mẹ thuyết pháp).” Hay như trong Trường Sanh Điện (長生殿), phần Bổ Hận (補恨) của Hồng Thăng (洪昇, 1645-1704) nhà Thanh lại có đoạn: “Ngã đương thượng tấu Thiên Đình, sử nhĩ lưỡng nhân thế cư Đao Lợi Thiên trung, vĩnh viễn thành song, dĩ bổ tùng tiền ly biệt chi hận (我當上奏天庭、使你兩人世居忉利天中、永遠成雙、以補從前離別之恨, ta sẽ tâu lên Thiên Đình, giúp hai ngươi đang sống trong cõi Trời Đao Lợi, vĩnh viễn được thành đôi lứa, để bù vào nỗi hận cách biệt trước kia).” Ngoài ra, trong bài Tần Châu Thiên Thủy Quận Mạch Tích Nhai Phật Kham Minh (秦州天水郡麥積崖佛龕銘) của Dữu Tín (庾信, 513-581) thời Bắc Chu lại có câu: “Ảnh hiện Tu Di, hương văn Đao Lợi (影現須彌、香聞忉利, ảnh hiện Tu Di, hương nghe Đao Lợi).”
(彌天): có hai nghĩa chính. (1) Tỷ dụ ý chí cao ngất trời. Như trong bài thơ Tống Tánh Nguyên Thượng Tọa Hoàn Thanh Phố (送性原上座還青浦) của Kim Nông (金農, 1687-1764) nhà Thanh có câu: “Thành Phật mạc giáo linh vận hậu, di thiên đắc tợ Đạo An vô (成佛莫敎靈運後、彌天得似道安無, thành Phật chớ bảo thời vận hậu, ý chí ai bằng Đạo An đây).” Từ đó, Di Thiên cũng được dùng thay thế cho Thích Đạo An (道安, 312[314]-385), nhân vật trung tâm của Phật Giáo thời Đông Tấn. Như trong bài thơ Tống Trọng Chế Đông Du Kiêm Ký Trình Linh Triệt Thượng Nhân (送仲制東遊兼寄呈靈澈上人) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Kinh Châu bổn tự trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu do y nhiên (荊州本自重彌天、南朝塔廟猶依然, Kinh Châu vốn kính trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu còn y nguyên).” (2) Đầy trời, ngất trời. Như trong bức Báo Đông Hải Tương Lương Quý Nhiên Thư (報東海相梁季然書) của Ứng Cừ (應璩, 190-252) nhà Ngụy thời Tam Quốc có câu: “Đốn di thiên chi võng, thu vạn nhận chi ngư (頓彌天之網、收萬仞之魚, bủa khắp trời lưới võng, thâu vạn thước cá to).” Hay trong Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Ngữ Lục (古林清茂禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1412) quyển 5, phần Vô Lượng Thọ Phật Tượng Tán (無量壽佛像讚), có đoạn: “Chiêm lễ vô vong thập nhị thì, cố hương đoan khả dữ tâm kỳ, di thiên tướng hảo thanh lương nguyệt, ánh nhật liên khai bạch ngọc trì (瞻禮無忘十二時、故鄉端可與心期、彌天相好清涼月、映日蓮開白玉池, chiêm lễ đâu quên mười hai thời, cố hương trông ngóng tâm muôn nơi, khắp trời tướng tốt trăng trong sáng, trời tỏ sen khai ngọc trắng phơi).”
(地府): còn gọi là Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), chỉ dưới lòng đất, tên gọi khác của Địa Ngục. Tại Trung Quốc, phần lớn các điển tịch thần thoại cổ đại cũng như của Phật Giáo đều có đề cập đến tên gọi Âm Tào Địa Phủ. Người dân Trung Quốc chia thế giới vạn vật làm hai cực: đó là học thuyết âm dương, là thành phần quan trọng của học thuyết cổ đại Trung Quốc; như Trời (dương) và Đất (âm), nam (dương) và nữ (âm), mặt trời (dương) và mặt trăng (âm). Hơn nữa, tại Trung Quốc còn có học thuyết Ba Cõi: trên trời, con người và địa ngục. Họ cho rằng mỗi con người đều có linh hồn, 3 hồn hay 7 hồn. Sau khi con người chết đi, trước hết sẽ đọa xuống cõi Âm Tào Địa Phủ để chịu sự xét xử, thọ nhận quả báo, hình phạt; được vị phán quan cõi âm là Diêm La Vương (閻羅王) phán xét. Nếu ai trên dương gian làm việc thiện, tu nhân tích đức, sẽ đắc đạo thành tiên, sanh về cõi trời, được trường sanh bất tử. Nếu người chuyên làm việc ác, sẽ bị trừng phạt trong 18 tầng Địa Ngục dưới Âm Phủ. Người trung quốc xưa cho rằng trên trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản, ở phương Tây có Phật Tổ Như Lai, trên đời có Hoàng Đế cai trị; còn cõi âm thì có Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cũng như các vua khác chủ quản. Theo truyền thuyết, người chưởng quan tối cao cõi Địa Phủ là Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế (天齊仁聖大帝), cai quản toàn thể sanh linh vạn vật. Kế đến là Bắc Âm Phong Đô Đại Đế (北陰酆都大帝). Sau đó có các Quỷ Đế (鬼帝, vua quỷ) ở 5 phương: Đông Phương Quỷ Đế Thái Uất Lũy (東方鬼帝蔡鬱壘), còn gọi là Thần Trà (神荼), cai quản Quỷ Môn Quan (鬼門關) ở Đào Chỉ Sơn (桃止山); Tây Phương Quỷ Đế Triệu Văn Hòa (西方鬼帝趙文和), còn gọi là Vương Chân Nhân (王真人), cai quản Ba Trủng Sơn (嶓塚山); Bắc Phương Quỷ Đế Trương Hành (北方鬼帝張衡), còn gọi là Dương Vân (楊雲), cai quản La Phong Sơn (羅酆山); Nam Phương Quỷ Đế Đỗ Tử Nhân (南方鬼帝杜子仁), cai quản La Phù Sơn (羅浮山); Trung Ương Quỷ Đế Chu Khất (中央鬼帝週乞), còn gọi là Khể Khang (稽康), cai quản Bão Độc Sơn (抱犢山). Bên dưới là 6 vị trời La Phong (羅酆), tức là những vị Thủ Cung Thần (守宮神), gồm: Trụ Tuyệt Âm Thiên Cung (紂絕陰天宮), Thái Sát Lượng Sự Tông Thiên Cung (泰煞諒事宗天宮), Minh Thần Nại Phạm Võ Thành Thiên Cung (明晨耐犯武城天宮), Điềm Chiêu Tội Khí Thiên Cung (恬昭罪氣天宮), Tông Linh Thất Phi Thiên Cung (宗靈七非天宮), Cảm Ty Liên Uyển Lũ Thiên Cung (敢司連宛屢天宮). Tuy nhiên, truyền thuyết cho rằng chốn Âm Tào Địa Phủ là do Thập Điện Diêm La Vương (十殿閻羅王) thống quản: Tần Quảng Vương (秦廣王), Sở Giang Vương (楚江王), Tống Đế Vương (宋帝王), Ngũ Quan Vương (五官王), Diêm La Vương (閻羅王), Bình Đẳng Vương (平等王), Thái Sơn Vương (泰山王), Đô Thị Vương (都市王), Biện Thành Vương (卞城王), Chuyển Luân Vương (轉輪王). Dưới Thập Điện Diêm La Vương còn có các vị thần khác như Thủ Tịch Phán Quan Thôi Phủ Quân (首席判官崔府君), Chung Khôi (鍾魁), Hắc Bạch Vô Thường (黑白無常), Ngưu Đầu Mã Diện (牛頭馬面), Mạnh Bà Thần (孟婆神), v.v.
(地藏菩薩本願經): còn gọi là Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh (地藏本願經), Địa Tạng Bổn Hạnh Kinh (地藏本行經), Địa Tạng Bổn Thệ Lực Kinh (地藏本誓力經); gọi tắt là Địa Tạng Kinh (地藏經). Đây là kinh điển quan trọng tán dương nguyện lực cao cả, vĩ đại của Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) như có đề cập trong kinh là: “Địa Ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề (地獄未空誓不成佛、眾生度盡方證菩提, Địa Ngục chưa hết thề không thành Phật, chúng sanh độ sạch mới chứng Bồ Đề).” Kinh được thâu lục vào Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (大正新脩大藏經, Taishō Vol. 13, No. 412). Do vì nguyên lưu của kinh không được rõ ràng, sau khi được thâu lục vào Đại Tạng Kinh dưới thời nhà Minh (明, 1368-1662), học giả Phật Giáo hoài nghi rằng có bộ phận của kinh không phải do được truyền nhập từ Ấn Độ vào, mà do chế tác tại Trung Quốc. Về dịch giả, phần đầu kinh có ghi là “Đường Vu Điền Quốc Tam Tạng Sa Môn Thật Xoa Nan Đà dịch (唐于闐國三藏沙門實叉難陀譯, Tam Tạng Sa Môn Thật Xoa Nan Đà [s: Śikṣānanda, 529-645, tức Giới Hiền] của nước Vu Điền nhà Đường dịch).” Nhưng bản nhà Minh thì lại ghi là Pháp Đăng (法燈), Pháp Cự (法炬) dịch. Trên thực tế, dịch giả và niên đại dịch kinh này vẫn chưa xác định rõ. Như trong Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋敎錄, Taishō Vol. 55, No. 2154) do Trí Thăng (智昇) của Sùng Phước Tự (崇福寺) nhà Đường, cũng như Trinh Nguyên Tân Định Thích Giáo Mục Lục (貞元新定釋敎目錄, Taishō Vol. 55, No. 2157) do Sa Môn Viên Chiếu (圓照) ở Tây Minh Tự (西明寺), Tây Kinh (西京) biên soạn, cho biết rằng Thật Xoa Nan Đà dịch được 19 bộ kinh điển, nhưng lại không thấy đề cập đến bộ kinh Địa Tạng này. Đại Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) nhà Minh lại y cứ vào lời bạt đầu kinh mà cho là Thật Xoa Nan Đà dịch. Tuy nhiên, đại đa số các bản lưu thông thời nhà Minh lại ghi là do Pháp Đăng và Pháp Cự dịch. Trong khi đó, hai nhân vật này không rõ thuộc thời đại nào. Tại Việt Nam, bản thông dụng do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Việt dịch cũng căn cứ vào bản Hán dịch của Pháp Sư Pháp Đăng. Kinh này được đề cập đến đầu tiên trong Địa Tạng Bồ Tát Tượng Linh Nghiệm Ký (地藏菩薩像靈驗記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1638), tác phẩm được thâu tập vào khoảng niên hiệu Đoan Củng (端拱, 988-989) nhà Bắc Tống, do Sa Môn Truyền Giáo Thường Cẩn (常謹) ghi lời tựa vào năm Kỷ Sửu (989) cùng niên hiệu trên. Bản này có trích dẫn nội dung của Phẩm Phân Thân Công Đức (分身功德品) và cho biết rằng Phạn bản của kinh được Sa Môn Trí Hựu (知祐) của Tây Ấn Độ mang đến Thanh Thái Tự (清泰寺), Trung Quốc vào khoảng niên hiệu Thiên Phước (天福, 936-948) của vua Cao Tổ Thạch Kính Đường (高祖石敬瑭, tại vị 936-942) nhà Hậu Tấn, thời Ngũ Đại. Thêm vào đó, tác phẩm Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục (三寶感應要略錄, Taishō Vol. 51, No. 2084) do Thích Phi Trọc (釋非濁) thâu lục, cũng có đề cập đến nội dung của Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông (忉利天宮神通品), từ đó mới biết được rằng kinh này đã được lưu hành dưới thời Bắc Tống. Gần đây, tại Tây Hạ, người ta có phát hiện bản văn tiếng Tây Hạ của Địa Tạng Kinh Tàn Bản, và đây cũng là chứng cứ cho biết rằng trước thời nhà Tống, Kinh Địa Tạng đã được truyền vào Nhật Bản rồi. Về nội dung, kinh được hình thành bởi 13 phẩm chính:
(1) Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông Phẩm (忉利天宮神通品),
(2) Phân Thân Tập Hội Phẩm (分身集會品),
(3) Quán Chúng Sanh Nghiệp Duyên Phẩm (觀眾生業緣品),
(4) Diêm Phù Chúng Sanh Nghiệp Cảm Phẩm (閻浮眾生業感品),
(5) Địa Ngục Danh Hiệu Phẩm (地獄名號品),
(6) Như Lai Tán Thán Phẩm (如來讚歎品),
(7) Lợi Ích Tồn Vong Phẩm (利益存亡品),
(8) Diêm La Vương Chúng Tán Thán Phẩm (閻羅王眾讚歎品),
(9) Xưng Phật Danh Hiệu Phẩm (稱佛名號品),
(10) Giảo Lượng Bố Thí Công Đức Duyên Phẩm (校量布施功德緣品),
(11) Địa Thần Hộ Pháp Phẩm (地神護法品),
(12) Kiến Văn Lợi Ích Phẩm (見聞利益品) và
(13) Chúc Lụy Nhân Thiên Phẩm (囑累人天品).
Các bản chú giải liên quan đến kinh có Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Văn (地藏本願經科文, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 382), 1 quyển, của Tần Khê Thanh Liên Đại Sư (秦谿青蓮大師); Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú (地藏本願經科註, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 384), 6 quyển, của Thanh Liên Bí Sô Linh Thừa (青蓮苾芻靈乘) ở Cổ Diêm Khuông Am (古鹽匡菴); Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Luân Quán (地藏本願經綸貫, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 383), 1 quyển, cũng do Thanh Liên Bí Sô Linh Thừa soạn, v.v. Đối với tín ngưỡng dân gian, Kinh Địa Tạng đóng vai trò quan trọng trong việc cầu siêu độ cho những vong linh thân nhân quá vãng. Cho nên, tại Việt Nam, vào dịp Lễ Vu Lan, Lễ Chung Thất Trai Tuần, lễ Húy Nhật, Đại Trai Đàn Chẩn Tế, v.v., kinh này được trì tụng rất phổ biến.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập