Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thích Thị Kê Cổ Lược »»
(姑洗): có hai nghĩa chính:
(1) Tên gọi âm thứ 3 trong 6 âm thanh thuộc về Dương của 12 luật âm, tương đương với âm Hạ Vô (下無, shimomu) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Như trong Chấn Trạch Trường Ngữ (震澤長語), chương Âm Luật (音律) giải thích rằng: “Nam Lữ vi Vũ, Cô Tẩy vi Giốc (南呂爲羽、姑洗爲角, Nam Lữ là cung Vũ, Cô Tẩy là cung Giốc).”
(2) Chỉ tháng Ba Âm Lịch. Như trong tác phẩm Bạch Hổ Thông (白虎通), chương Ngũ Hành (五行) của Ban Cố (班固, 32-92) nhà Hán có ghi rõ rằng: “Tam nguyệt vị chi Cô Tẩy hà ? Cô giả cố dã; Tẩy giả tiên dã; ngôn vạn vật giai khử cố tự kỳ tân, mạc bất tiên minh dã (三月謂之姑洗何、姑者故也、洗者鮮也、言萬物皆去故就其新、莫不鮮明也, tháng Ba gọi là Cô Tẩy, vì sao ? Cô nghĩa là cũ, Tẩy nghĩa là mới; tức là vạn vật đều bỏ cái cũ mà đón cái mới, chẳng có gì mà không mới mẻ cả).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 còn cho biết rằng: “Thìn vi Cô Tẩy, tam nguyệt chi thần danh Thìn, Thìn giả chấn động chi nghĩa, thử nguyệt vật giai chấn động nhi trưởng, cố vị chi Thìn (辰爲姑洗、三月之辰名辰、辰者震動之義、此月物皆震動而長、故謂之辰, Thìn là Cô Tẩy, chi của tháng Ba là Thìn; Thìn có nghĩa là chấn động; tháng này muôn vật chuyển động mà lớn lên, nên gọi nó là Thìn).” Trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 8 cũng có giải thích thêm rằng: “Tam nguyệt kiến Thìn, hựu viết Cô Tẩy, hựu viết Mạc Xuân, viết Vãn Xuân, viết Diểu Xuân, hựu xưng Túc Nguyệt (三月建辰、又曰姑洗、又曰莫春、曰晚春、曰杪春、又稱宿月, tháng Ba kiến Thìn, lại gọi là Cô Tẩy, là Mạc Xuân, còn gọi là Vãn Xuân, là Diểu Xuân, còn có tên là Túc Nguyệt).” Hay trong Thích Thị Kê Cổ Lược (釋氏稽古略, Taishō Vol. 49, No. 2037) quyển 1 có câu: “Đại Minh Gia Tĩnh Quý Sửu tuế Cô Tẩy nguyệt Giáp Thân nhật Cú Khúc Thiên Vương Tự hậu học Sa Môn Xương Phục trùng san (大明嘉靖癸丑歲姑洗月甲申日句曲天王寺後學沙門昌腹重刊, hậu học Sa Môn Xương Phục khắc bản lại tại Thiên Vương Tự ở Cú Khúc, ngày Giáp Thân tháng Ba năm Quý Sửu [1553] niên hiệu Gia Tĩnh nhà Đại Minh).”
(覺岸寳洲, Kakugan Hōshū, 1286-1355?): vị tăng sống dưới thời nhà Nguyên, tên là Giác Ngạn (覺岸), xuất thân Ô Trình (烏程, Ngô Hưng, Triết Giang), họ Ngô (呉). Ông sống ở Bảo Tướng Tự (寳相寺) trong vùng, học thông cả nội ngoại cổ kim, chuyên nghiên cứu sâu về yếu chỉ Thiền của chư Phật tổ. Trong khoảng niên hiệu Chí Chánh (至正, 1341-1367), ông có soạn bộ Thích Thị Kê Cổ Lược (釋氏稽古略) 4 quyển, ghi lại những sự tích của chư Phật tổ và liệt vị cao tăng, thuật rõ hành trạng, xuất xứ, tình trạng tháp miếu hưng suy như thế nào và đồ chúng nhiều ít của chư vị cao tăng đại đức.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập