Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ. (Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thập Nhị Thần »»
(藥叉): tức Dạ Xoa (s: yakṣa, p: yakkha, 夜叉), còn gọi là Duyệt Xoa (悅叉、閱叉), Dã Xoa (野叉); ý dịch là Khinh Tiệp (輕捷), Dũng Kiện (勇健), Năng Đạm (能噉), Quý Nhân (貴人), Uy Đức (威德), Từ Tế Quỷ (祠祭鬼), Tiệp Tật Quỷ (捷疾鬼); là một trong tám bộ chúng, thường được gọi chung với quỷ La Sát (s: rākṣasa, 羅刹). Chúng Dạ Xoa thường trú trên đất liền hay trên hư không, dùng uy thế để làm cho con người sợ hãi. Đây cũng là loại quỷ ủng hộ chánh pháp. Theo Đại Hội Kinh (大會經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經) quyển 12, Đại Tỳ Bà Sa Luận (大毘婆沙論) quyển 133, Thuận Chánh Lý Luận (順正理論) quyển 31, v.v., cho biết rằng chúng Dạ Xoa chịu sự thống lãnh của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (毘沙門天王), thủ hộ cung Trời Đao Lợi (s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利), thọ nhận đủ loại hoan lạc, đầy đủ thế lực. Về chủng loại, Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 12 có nêu ra 3 loại Dạ Xoa: (1) Dạ Xoa đi trên mặt đất, thường có đủ các loại hoan hỷ, âm nhạc, đồ ăn uống, v.v. (2) Dạ Xoa trên hư không, có đủ sức mạnh, chạy nhanh như gió. (3) Dạ Xoa bay chạy trong cung điện, có đầy đủ các thứ âm nhạc cũng như vật tùy thân. Quyến thuộc của đức Phật Dược Sư có 12 vị Dược Xoa, được gọi là Thập Nhị Thần Vương (十二神王), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將), Thập Nhị Dược Xoa Đại Tướng (十二藥叉大將). Các vị này bảo vệ người trì tụng Dược Sư Kinh (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhāsapūryapraṇidhāna, 藥師經); hoặc họ là phân thân của đức Phật Dược Sư để ứng với 12 đại nguyện của Ngài. Mỗi vị Thần Tướng đều có 7.000 Dược Xoa quyến thuộc; tổng cọng là 84.000 vị thần hộ pháp.
(護法): bảo hộ, hộ trì chánh pháp. Tương truyền đức Phật từng phái 4 vị Đại Thanh Văn, 16 vị A La Hán (阿羅漢) đến để hộ trì Phật pháp. Bên cạnh đó, lại có Phạm Thiên (梵天), Đế Thích Thiên (帝釋天), Tứ Thiên Vương (四天王, 4 Thiên Vương), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將, 12 Thần Tướng), 28 bộ chúng, 13 phiên thần, 36 thần vương, 18 thiện thần chốn Già Lam, Long Vương, quỷ thần, v.v., nhân nghe đức Phật thuyết pháp mà thệ nguyện hộ trì Phật pháp. Những vị này được gọi là Thần Hộ Pháp, hay Hộ Pháp Thiện Thần (護法善神). Ngoài ra, các bậc đế vương, đàn việt, Phật tử đều là những người hộ pháp đắc lực. Trong số các Thần Hộ Pháp, có vị là thiện thần, nhưng cũng có vị là hung thần, ác thần. Họ có trách nhiệm bảo hộ chúng sanh, đầy đủ 4 công đức độ đời là làm cho tiêu trừ mọi tai họa, làm tăng trưởng ích lợi, tạo sự kính mến thương yêu, và hàng phục. Đặc biệt, Quan Vũ (關羽, tức Quan Thánh Đế Quân [關聖帝君]) cũng trở thành Thần Hộ Pháp, sau khi được Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397) dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ.
(幡[旛]): một loại cờ dài, hẹp, treo rũ thẳng xuống, có ghi nội dung tùy theo mục đích của buổi lễ; còn gọi là lá phướn. Như trong Sử Ký (史記) quyển 117, truyện Tư Mã Tương Như (司馬相如) có đoạn: “Thùy giáng phan chi tố nghê hề, tải vân khí nhi thượng phù (垂絳幡之素蜺兮、載雲氣而上浮, cầu vồng trắng phan đỏ chừ, chở khí mây mà nổi lên). Trong Phật Giáo, loại này thường được dùng với nhiều ý nghĩa, mục đích và tên gọi khác nhau: (1) Bạch Phan (白幡) hay Dẫn Lộ Phan (引路幡) là loại lá phướn dài, hẹp, màu trắng, được dùng bài trí trước linh cữu trong khi đám tang; với ý nghĩa là để dẫn dắt linh hồn người quá cố; trên đó ghi tên họ, quê quán, pháp danh, v.v., những thông tin liên quan đến người quá cố. Tại Việt Nam, loại này thường có màu đỏ, được gọi là lá Triệu. (2) Tràng Phan (幢幡) được xem như là một loại pháp khí, rất thông dụng trong các pháp đàn của Phật Giáo lẫn Đạo Giáo, dùng để cáo Trời đất, mời gọi chư Thần linh. Tràng (幢) khác với Phan ở điểm là trên đầu của lá Tràng thường có lọng che, cầm với cây cán; còn Phan thì không có lọng che, cầm trực tiếp bằng tay. Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經) quyển 1, Phẩm Tựa (序品) thứ nhất có câu: “Nhất nhất tháp miếu, các thiên tràng phan (一一塔廟、各千幢幡, mỗi một tháp miếu, có ngàn tràng phan).” (3) Bạch Hổ Phan (白虎幡) là loại lá phướn trên có trang trí hình con hổ trắng, dùng để truyền tin chiếu lệnh. Như trong Tống Thư (宋書) quyển 40, phần Bách Quan Chí (百官志) có đoạn: “Triêu hội yến hưởng, tắc Tướng Quân nhung phục, trực thị tả hữu, dạ khai thành chư môn, tắc chấp Bạch Hổ Phan giám chi (朝會宴饗、則將軍戎服、直侍左右、夜開城諸門、則執白虎幡監之, sáng gặp yến tiệc, tất Tướng Quân mặc nhung phục, hai bên có người hầu hạ, đêm về mở các cửa thành, thì cầm Phan Bạch Hổ đi giám sát). (4) Phan Cái (幡蓋) là một loại tràng phan trên có lọng che, dùng để trang trí tại các nơi tôn nghiêm như đền thờ, chùa chiền, v.v. Như trong bài thơ Đăng Thiên Phước Tự Sở Kim Thiền Sư Pháp Hoa Viện Đa Bảo Tháp (登千福寺楚金禪師法華院多寶塔) của Sầm Tham (岑參, khoảng 715-770) có câu: “Phần hương như vân đồn, phan cái san san thùy (焚香如雲屯、幡蓋珊珊垂, hương xông như mây tụ, phan cái rũ leng keng).” Trong Công Văn Đàn Tràng, thường có các loại Phan như Trùng Tang Phan (重喪旛), Thập Nhị Thần Sát Phan (十二神煞旛), Chiêu Linh Phan (召靈旛), Thiên Lôi Phan (天雷旛), Thất Như Lai Phan (七如來旛), v.v.
(廣隆寺, Kōryū-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Ngự Thất (御室派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Sakyō-ku (右京區), Kyōto-to (京都市), Kyōto-fu (京都府); còn gọi là Phong Cang Tự (蜂岡寺), Thái Tần Tự (太秦寺), Tần Tự (秦寺), Tần Công Tự (秦公寺), Cát Dã Tự (葛野寺); hiệu núi là Phong Cang Sơn (蜂岡山). Ở vùng này, vào thời đại Ứng Thần Thiên Hoàng (應神天皇), con cháu của vua Tần Thủy Hoàng cũng như những người di dân từ Vương Quốc Bách Tế (百濟, Kudara) bên Triều Tiên sang đã làm cho hưng thạnh sản nghiệp, và đây cũng là nơi di thực nền văn minh từ vùng Đại Lục Trung Hoa vậy. Trong số những người dân đến đây có người hậu duệ của nhà họ Tần là Tần Hà Thắng (秦河勝). Tương truyền vị này nhân để an trí tượng Phật mà được Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtōku Taishi) ban tặng vào năm 604, cũng như các tượng Phật do hai nước Tân La (新羅) và Nhậm Na (任那) ban tặng, đã tạo lập nên ngôi chùa này nơi vùng đất nhà họ Tần. Sau đó, vào năm 810 và 1150 thì chùa bị cháy tan tành, nhưng cũng đã được tái kiến lại mấy lần. Chùa này vốn là chùa của dòng họ Tần, là ngôi chùa tối cổ ở vùng Kinh Đô Kyoto, là một trong bảy ngôi chùa có liên quan đến hành trạng của Thái Tử, bên cạnh Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), Tứ Thiên Vương Tự (四天王寺, Shitennō-ji). Quần thể kiến trúc hiện tại có Giảng Đường là kiến trúc được tái kiến dưới thời Bình An. Trong tòa nhà này ở chính giữa thờ tượng ngồi A Di Đà Phật bằng gỗ, bên phải có tượng Địa Tạng Bồ Tát, bên trái có tượng Hư Không Tạng Bồ Tát (虛空藏菩薩), phía đằng sau hai bên phải trái lại có an trí hai tượng Bất Không Quyên Sách Quan Âm (不空羂索觀音), Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音). Còn Chánh Điện Quế Cung Viện (桂宮院) là kiến trúc ảnh hưởng phong trào tín ngưỡng Thái Tử vào thời Liêm Thương, được xây dựng dưới hình thức Mộng Điện, nhà hình tròn bát giác. Trong điện thờ tượng ngồi bán già Như Ý Luân Quan Âm (如意輪觀音) bằng gỗ. Thượng Cung Vương Viện Thái Tử Điện (上宮王院太子殿) lại là Chánh Điện chính của chùa, thờ tượng Thánh Đức Thái Tử ngồi bán già. Linh Bảo Điện (靈寶殿) là nơi tàng trữ những vật báu của chùa ngang tầm cỡ quốc bảo. Bảo vật của chùa có tượng Bồ Tát Di Lặc ngồi bán già, bằng gỗ; tượng ngồi A Di Đà Như Lai, bằng gỗ; tượng đứng Bất Không Quyên Sách Quan Âm, bằng gỗ; tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm, bằng gỗ; tượng đứng Thập Nhị Thần Tướng, bằng gỗ; Chánh Điện Quế Cung Viện, v.v.
(太歲): Mộc Tinh (木星, Jupiter), còn gọi là Tuế Tinh (歲星), Thái Âm (太陰), Tuế Âm (歲陰), Tuế Quân (歲君), Thái Tuế Tinh Quân (太歲星君), là tên gọi của vị thần trong Đạo Giáo Trung Quốc. Ngày xưa ngôi sao này được dùng để đếm tuổi nên có tên gọi như vậy, về sau biến thành một loại tín ngưỡng thần linh. Thái Tuế còn là tên của một trong Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, với câu kệ là: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện. Trong dân gian thường có từ “phạm Thái Tuế (犯太歲)”, “xung Thái Tuế (衝太歲)”, “hình Thái Tuế (刑太歲)” hay “thiên xung Thái Tuế (偏衝太歲)”. Tỷ dụ như năm nay là năm con Tỵ (巳, con rắn), người tuổi con rắn là phạm Thái Tuế, tuổi Hợi (亥, con heo) là xung Thái Tuế; tuổi Thân (申, con khỉ) và Dần (寅, con cọp) là thiên xung Thái Tuế. Vì vậy, có câu ngạn ngữ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, vô hỷ khủng hữu họa (太歲當頭坐、無喜恐有禍, Thái Tuế trên đầu ngự, chẳng vui e có họa).” Cho nên, người ta có tục lệ An Thái Tuế (安太歲), tức cúng sao giải hạn, cầu nguyện được vạn sự bình an, cát tường. Ngay từ buổi đầu, tục lệ An Thái Tuế rất giản dị. Tín đồ nào muốn cúng An Thái Tuế thì nên nhân dịp trước hay sau tiết Xuân, lấy giấy màu hồng hay vàng viết lên dòng chữ như “Bổn niên Thái Tuế Tinh Quân đáo thử (本年太歲星君到此, năm nay Thái Tuế Tinh Quân đến đây)”, “Bổn niên Thái Tuế Tinh Quân thần vị (本年太歲星君神位, thần vị của Thái Tuế Tinh Quân năm nay)”, “Nhất tâm kính phụng Thái Tuế Tinh Quân (一心敬奉太歲星君, một lòng kính thờ Thái Tuế Tinh Quân)”, đem dán trong nhà, hằng ngày dâng hương cầu khấn. Đến cuối năm, nên đem giấy đó ra đốt với ý nghĩa là “tiễn Thần lên Trời.” Tương truyền trong vòng 60 năm, mỗi năm Trời phái một vị thần phụ trách năm ấy, quản lý toàn bộ việc phước họa của con người. Cho nên, trong thời gian 60 năm ấy có 60 vị Thái Tuế. Tín ngưỡng này có từ thời Nam Bắc Triều (南北朝, 220-589), và đến đầu thời nhà Thanh (清, 1616-1911) thì có tên họ rõ ràng của 60 vị thần Thái Tuế Tinh Quân. Tên của mỗi vị ứng vào các năm như sau:
(1) Thái Tuế năm Giáp Tý là Kim Biện Tổ Sư (金辦祖師),
(2) Thái Tuế năm Ất Sửu là Trần Tài Tổ Sư (陳材祖師),
(3) Thái Tuế năm Bính Dần là Đam Chương Tổ Sư (耿章祖師),
(4) Thái Tuế năm Đinh Mão là Trầm Hưng Tổ Sư (沉興祖師),
(5) Thái Tuế năm Mậu Thìn là Triệu Đạt Tổ Sư (趙達祖師),
(6) Thái Tuế năm kỷ tỵ là Quách Xán Tổ Sư (郭燦祖師),
(7) Thái Tuế năm Canh Ngọ là Vương Thanh Tổ Sư (王清祖師),
(8) Thái Tuế năm Tân Mùi là Lý Tố Tổ Sư (李素祖師),
(9) Thái Tuế năm Nhâm Thân là Lưu Vượng Tổ Sư (劉旺祖師),
(10) Thái Tuế năm Quý Dậu là Khang Chí Tổ Sư (康志祖師),
(11) Thái Tuế năm Giáp Tuất là Thí Quảng Tổ Sư (施廣祖師),
(12) Thái Tuế năm Ất Hợi là Nhiệm Bảo Tổ Sư (任保祖師),
(13) Thái Tuế năm Bính Tý là Quách Gia Tổ Sư (郭嘉祖師),
(14) Thái Tuế năm Đinh Sửu là Uông Văn Tổ Sư (汪文祖師),
(15) Thái Tuế năm Mậu Dần là Tằng Quang Tổ Sư (曾光祖師),
(16) Thái Tuế năm Kỷ Mão là Long Trọng Tổ Sư (龍仲祖師),
(17) Thái Tuế năm Canh Thìn là Đổng Đức Tổ Sư (董德祖師),
(18) Thái Tuế năm Tân Tỵ là Trịnh Đán Tổ Sư (鄭但祖師),
(19) Thái Tuế năm Nhâm Ngọ là Lục Minh Tổ Sư (陸明祖師),
(20) Thái Tuế năm Quý Mùi là Ngụy Nhân Tổ Sư (魏仁祖師),
(21) Thái Tuế năm Giáp Thân là Phương Kiệt Tổ Sư (方杰祖師),
(22) Thái Tuế năm Ất Dậu là Tương Sùng Tổ Sư (蔣崇祖師),
(23) Thái Tuế năm Bính Tuất là Bạch Mẫn Tổ Sư (白敏祖師),
(24) Thái Tuế năm Đinh Hợi là Phong Tề Tổ Sư (封齊祖師),
(25) Thái Tuế năm Mậu Tý là Trịnh Thang Tổ Sư (鄭鏜祖師),
(26) Thái Tuế năm Kỷ Sửu là Phan Tá Tổ Sư (潘佐祖師),
(27) Thái Tuế năm canh dần là Ổ Hoàn Tổ Sư (鄔桓祖師),
(28) Thái Tuế năm Tân Mão là Phạm Ninh Tổ Sư (范寧祖師),
(29) Thái Tuế năm Nhâm Thìn là Bành Thái Tổ Sư (彭泰祖師),
(30) Thái Tuế năm Quý Tỵ là Từ Hoa Tổ Sư (徐華祖師),
(31) Thái Tuế năm Giáp Ngọ là Chương Từ Tổ Sư (章詞祖師),
(32) Thái Tuế năm Ất Mùi là Dương Tiên Tổ Sư (楊仙祖師),
(33) Thái Tuế năm Bính Thân là Quản Trọng Tổ Sư (管仲祖師),
(34) Thái Tuế năm Đinh Dậu là Đường Kiệt Tổ Sư (唐傑祖師),
(35) Thái Tuế năm Mậu Tuất là Khương Võ Tổ Sư (姜武祖師),
(36) Thái Tuế năm Kỷ Hợi là Tạ Đảo Tổ Sư (謝燾祖師),
(37) Thái Tuế năm Canh Tý là Ngu Khởi Tổ Sư (虞起祖師),
(38) Thái Tuế năm Tân Sửu là Dương Tín Tổ Sư (楊信祖師),
(39) Thái Tuế năm Nhâm Dần là Hiền Ngạc Tổ Sư (賢諤祖師),
(40) Thái Tuế năm Quý Mão là Bì Thời Tổ Sư (皮時祖師),
(41) Thái Tuế năm Giáp Thìn là Lý Thành Tổ Sư (李誠祖師),
(42) Thái Tuế năm Ất Tỵ là Ngô Toại Tổ Sư (吳遂祖師),
(43) Thái Tuế năm Bính Ngọ là Văn Triết Tổ Sư (文哲祖師),
(44) Thái Tuế năm Đinh Mùi là Mậu Bính Tổ Sư (繆丙祖師),
(45) Thái Tuế năm Mậu Thân là Từ Hạo Tổ Sư (徐浩祖師),
(46) Thái Tuế năm Kỷ Dậu là Trình Bảo Tổ Sư (程寶祖師),
(47) Thái Tuế năm Canh Tuất là Nghê Bí Tổ Sư (倪秘祖師),
(48) Thái Tuế năm Tân Hợi là Diệp Kiên Tổ Sư (葉堅祖師),
(49) Thái Tuế năm Nhâm Tý là Kheo Đức Tổ Sư (丘德祖師),
(50) Thái Tuế năm Quý Sửu là Chu Đắc Tổ Sư (朱得祖師),
(51) Thái Tuế năm Giáp Dần là Trương Triều Tổ Sư (張朝祖師),
(52) Thái Tuế năm Ất Mão là Vạn Thanh Tổ Sư (萬清祖師),
(53) Thái Tuế năm Bính Thìn là Tân Á Tổ Sư (辛亞祖師),
(54) Thái Tuế năm Đinh Tỵ là Dương Ngạn Tổ Sư (楊彥祖師),
(55) Thái Tuế năm Mậu Ngọ là Lê Khanh Tổ Sư (黎卿祖師),
(56) Thái Tuế năm Kỷ Mùi là Phó Đảng Tổ Sư (傅黨祖師),
(57) Thái Tuế năm Canh Thân là Mao Tử Tổ Sư (毛梓祖師),
(58) Thái Tuế năm Tân Dậu là Thạch Chính Tổ Sư (石政祖師),
(59) Thái Tuế năm Nhâm Tuất là Hồng Sung Tổ Sư (洪充祖師), và
(60) Thái Tuế năm Quý Hợi là Ngu Trình Tổ Sư (虞程祖師).
(神煞): hay Thần Sát Tinh (神煞星), là tên gọi những ngôi sao chiếu mạng quyết định việc tốt xấu của con người. Một số sao Thần Sát thường dùng như:
(1) Thiên Ất Quý Nhân (天乙貴人), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, với người lớn hơn mình, với người khác phái, thích xã giao.
(2) Thiên Y (天醫), người gặp sao này thì có năng lực rất mạnh như học tập, lý giải, quán sát, mô phỏng, tâm hiếu kỳ, tâm nghiên cứu, trực giác, v.v.
(3) Thiên Đức (天德), người gặp sao này thì có tài trí mưu lược xuất sắc, tâm vinh dự cao, năng lực lớn, phàm mọi việc gặp hung dữ hóa thành tốt, được quý nhân giúp đỡ.
(4) Nguyệt Đức (月德), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, xã giao, tâm cung kính, tâm trách nhiệm, năng lực thích ứng cao.
(5) Nguyệt Đức Hợp (月德合), người gặp sao này thì có năng lực quán sát, đối ứng, bàn chuyện kinh doanh rất mạnh.
(6) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì trong đời này có tiền tài dư dật, kinh tế không bao giờ gặp nguy cơ, có quý nhân giúp đỡ, thường có phước, có năng lực làm thân, kết duyên lành với mọi người.
(7) Văn Xương (文昌), người gặp sao này thì có năng lực viết lách, văn nghệ, học tập.
(8) Tam Kỳ Quý (三奇貴), người gặp sao này thì có năng lực học tập tinh chuyên, sức tập trung mạnh, đầu óc làm việc linh mẫn, cơ trí nhạy bén, dễ thành nhân tài có kỹ năng chuyên nghiệp, như công trình sư, nhà tư vấn, v.v.
(9) Lục Tú (六秀), là ngôi sao có năng lực viết văn trác việt, người gặp sao này thì có năng lực học tập, tư duy rất mạnh, thuộc nhà nghệ thuật ở trạng thái tĩnh như họa sĩ, nhà thư pháp, sáng tác khúc từ, v.v.
(10) Thập Linh Nhật (十靈日), là ngôi sao thuộc về tôn giáo, người gặp sao này thì có trực giác linh nhuệ, khéo quán sát lời nói, nhìn sắc mặt người, năng lực lãnh ngộ, khéo hiểu ý người, v.v.
(11) Khôi Cương (魁罡), người gặp sao này thì về ăn uống nên thận trọng, chớ ăn thịt bò, chó; duyên hôn nhân rắc rối, tai tiếng, có đủ tinh thần độc lập tự chủ, năng lực tổ chức mạnh.
(12) Học Đường (學堂), người gặp sao này thì có năng lực bắt chước, sáng tác, tưởng tượng, lý giải.
(13) Học Sĩ (學士), người gặp sao này thì có tâm nghiên cứu, lòng hiếu kỳ, muốn tìm hiểu, có năng lực học thuộc lòng, nhớ dai.
(14) Kim Quỹ (金匱), người gặp sao này thì có đầy đủ năng lực sáng tác, lãnh ngộ, cầm quyền, quyết đoán, quy hoạch.
(15) Tấn Thần (進神), người gặp sao này thì có ý thức chủ quan rất mạnh, kiêu ngạo, tự phụ, không chịu phục tùng bất cứ ai, nóng nảy.
(16) Lộc Thần (祿神), người gặp sao này thì có thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(17) Bối Lộc (背祿), đại diện cho những người xem thường tổ tiên, ly hương biệt xứ, không được hưởng phúc ấm của tổ tông.
(18) Kiến Lộc (建祿:代表建功立業白手自足,不得雙視庇蔭,不宜合夥生意), đại diện cho những người tạo công lập nghiệp tay trắng một mình, không được phúc ấm của song thân.
(19) Chuyên Lộc (專祿), đại diện cho những người thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(20) Quy Lộc (歸祿), đại diện cho những người giao tế rộng rãi, tài lộc đầy đủ, tránh chuyện vay mượn, có thể tránh kiện tụng.
(21) Hoa Cái (華蓋), người gặp sao này thì có tâm cầu học, tự động tìm tòi, tự ngộ để đạt đến kết quả cao, có thiên tánh về mỹ thuật, thiết kế, trang hoàng, âm nhạc; về phương diện văn học thì rất hứng thú và có thiên tài; đây là ngôi sao chỉ chuyên về nghệ thuật, tôn giáo, nên có tánh nghiên cứu, muốn tìm cầu, năng lực học tập, tính chất mẫn cảm.
(22) Cô Thần (孤辰), người gặp sao này thì có tánh cách cô đơn, trầm mặc, không nói nhiều, tâm trong sạch, ít ham muốn, thường an phận, không có tâm cầu tiến.
(23) Quả Tú (寡宿), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái rất ít, duyên hôn nhân cũng mong manh, chủ nghĩa độc thân.
(24) Nguyên Thần (元辰), là sao hao tổn, miệng tiếng.
(25) Kim Dư (金輿), là sao về tài của cùng với quan hệ phối ngẫu, được hỗ trợ về chuyện phối ngẫu, kỹ thuật.
(26) Kim Tinh (金星), người gặp sao này thì anh minh, trí tuệ, dũng cảm, quả quyết, kiên nhẫn, cương nhu đều có đủ, chú trọng vinh dự, quyền uy.
(27) Thiên Xá (天赦), người gặp sao này thì một đời bị kiện tụng cửa quan, lao ngục, tai hại ngoài ý muốn, một đời thường đều có thể gặp xấu hóa tốt, có kinh động nhưng không nguy hiểm.
(28) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì có quý nhân tương trợ, kinh tế phát triển, một đời tài lộc, ăn uống sung túc, có duyên xã giao, năng lực kết duyên lành.
(29) Tướng Tinh (將星), người gặp sao này thì hiển đạt về quan quyền, có thể nắm quyền bính trong tay, có năng lực quản lý, quyết đoán, cơ trí.
(30) Dịch Mã (驛馬), là sao đổi dời, đi xa, biến động.
(31) Âm Dương Sát (陰陽煞), người gặp sao này thì nên tiến hành duyên hôn nhân chậm, không nên sớm, mới có thể trừ được lo âu thay đổi chuyện hôn nhân, nên thận trọng trong việc giao tế với người khác phái, mới có thể tránh được chuyện thị phi, tranh giành.
(32) Kiếp Sát (劫煞), người gặp sao này thì có cơ trí linh mẫn, phản ứng nhạy bén, tâm háo thắng.
(33) Quải Kiếm Sát (掛劍煞), người gặp sao này thì dễ mắc phải các bệnh tật về gân cốt, đường ruột, cơ quan vận động, v.v., hằng ngày nên đề phòng các vật kim loại bén nhọn, vật nguy hiểm gây thương tích; dễ bị thương tích đánh đập, ngã quỵ, té xuống đất.
(34) Câu Giao (勾絞), là sao phiền phức về chuyện cảm tình, hôn nhân.
(35) Đào Hoa (桃花), đại diện cho sức hấp dẫn, thu hút, năng lực thưởng thức, trang sức, có duyên xã giao.
(36) Thiên Hỷ (天喜), là sao vui sướng, như ý, có cảm giác thâm sâu, năng lực hòa đồng, tình người.
(37) Hồng Diễm (紅艷), là sao nghệ thuật lãng mạn, có đủ năng lực thưởng thức, thiết kế trang phục, trang hoàng, có duyên với người khác phái.
(38) Hồng Loan (紅鸞), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái, tư tưởng lãng mạn, có năng lực phối hợp sắc màu nghệ thuật tranh tĩnh vật.
(39) Lưu Hà (流霞), người gặp sao này thì trong quá trình sinh sản dễ gặp nguy hiểm, lưu sản, dễ mắc bệnh tuần hoàn huyết dịch về tim mạch.
(40) Vong Thần (亡神), là sao ẩn tàng, không lộ hiện tung tích, người gặp sao này thì giỏi về mưu lược, vui, buồn, tức giận đều không thể hiện ra ngoài sắc mặt.
(41) Dương Nhận (羊刃), là sao về chức võ, chủ yếu người gặp sao này thì có tâm háo thắng, không chịu khuất phục, dõng mãnh, đảm đương, lanh lẹ.
(42) Huyết Nhận (血刃), là sao thương tích ngoài ý muốn, bất ngờ, người gặp sao này thì hằng ngày nên thận trọng về bỏng lửa, thương tích đánh đập, các vật kim loại, bén nhọn, chú ý về giao thông.
(43) Phi Nhận (飛刃), là sao gặp công kích bất ngờ, tranh tụng, thị phi.
(44) Cách Giác (隔角), là sao chủ về việc kiện tụng cửa quan, miệng tiếng, thị phi; nếu gặp Hình Xung (刑沖) thì ắt sẽ có tai họa về kiện tụng, lao ngục.
(45) Không Vong (空亡), kim loại rỗng thì kêu to, lửa trống thì sẽ phát lớn, cây rỗng thì mục, đất rỗng thì lỡ sụt; người gặp sao này thì vô duyên với thân thích, nên tinh tấn tu hành.
Ngoài ra, còn có 12 ngôi sao Thần Sát, được gọi là Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, gồm:
(1) Thái Tuế (太歲), có câu kệ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện.
(2) Thái Dương (太陽), có câu kệ rằng: “Thái Dương cát tinh chiếu, cầu tài ngộ trân bảo, âm dương hữu hòa hợp, định cảm phước lai bảo (太陽吉星照、求財遇珍寶、陰陽有和合、定感福來保, Thái Dương sao tốt chiếu, cầu tài gặp của báu, âm dương có hòa hợp, tất có phước đến nhà).” Người gặp sao này chủ yếu chiếu sáng hóa tốt, lấy lễ đãi người, thông minh cần mẫn, có chuyện vui giáng lâm.
(3) Tang Môn (喪門), câu kệ là: “Tang Môn tối vi hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phá tài tinh ngoại hiếu, nùng huyết kiến tai nghinh (喪門最爲凶、孝服重重逢、破財幷外孝、濃血見災迎, Tang Môn thật rất hung, tang phục lại trùng phùng, phá tài thêm bất hiếu, máu chảy thấy tai ương).” Người gặp sao này chủ yếu có đám tang, khóc lóc, hiếu sự hay hung tai, bị trộm cướp, con nhỏ sợ bị mất mạng vì xe cộ.
(4) Thái Âm (太陰), câu kệ là: “Thái Âm nhập mạng lai, thiêm hỷ hựu tấn tài, quý nhân tương tiếp dẫn, canh tác ngộ tài phong (太陰入命來、添喜又進財、貴人相接引、耕作遇財豐, Thái Âm gặp mạng này, thêm vui lại có tài, quý nhân thường giúp đỡ, canh tác gặp của hay).” Sao này chủ yếu tích tụ tài của hoặc thuộc loại ngũ quỷ đem tài của đến, người gặp sao này kinh doanh rất tốt, mỗi ngày càng phát tài, rất hợp với người nữ.
(5) Quan Phù (官符), có câu kệ là: “Quan Phù nhập mạng hung, khẩu thiệt quan ty trùng, phá tài kiêm ngoại hiếu, tác phước đảo thương cùng (官符入命凶、口舌官司重、破財兼外孝、作福禱蒼窮, Quan Phù gặp mạng hung, miệng tiếng chốn quan trường, phá tài thêm bất hiếu, làm phước cầu khắp cùng).” Người gặp sao này thường gặp kẻ tiểu nhân, tất gây ồn ào nơi cửa quan, chọn bạn nên cẩn thận, nên khuyên kẻ tiểu nhân làm phước.
(6) Tử Phù (死符), bài kệ rằng: “Tử Phù nhập mạng lai, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ mẫu thê nhi khắc, tác phước miễn tai ương (死符入命來、孝服重重逢、父母妻兒剋、作福免災殃, Tử Phù gặp mạng đây, tang phục lại chất chồng, mẹ cha vợ con khắc, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu có tai họa đột xuất như hình phạt của quan ty, bệnh tật, tranh đấu, phá tài, v.v. Người gặp sao này nên thận trọng khi đi băng qua khe nước, nên tìn đường vòng mà đi.
(7) Tuế Phá (歲破), bài kệ rằng: “Tuế Phá nhập mạng lai, nhật nguyệt phá tiền tài, lục súc hữu tổn thất, hợp gia vĩnh vô tai (歲破入命來、日月破錢財、六畜有損失、合家永無災, Tuế Phá gặp mạng đây, trời trăng phá tiền tài, gia súc có tổn thất, cả nhà hết ương tai).” Tuế Phá có nghĩa là xung phá Thái Tuế, chủ yếu làm hao phá tài vật cũng như trong nhà nhiều tai họa kéo dài trong nữa năm.
(8) Nguyệt Đức (月德), bài kệ rằng: “Nguyệt Đức nhập mạng lai, tứ quý tấn hoành tài, tại gia dã vô sự, xuất lộ dã vô tai (月德入命來、四季進橫財、在家也無事、出路也無災, Nguyệt Đức gặp mạng đây, bốn mùa thêm tiền tài, trong nhà cũng vô sự, ra đường chẳng hung tai).” Sao này chủ yếu là đức của người lớn, được gọi là Long Đức (龍德), nhờ bố thí, làm việc thiện tạo lợi lạc, trăm việc gặp xấu hóa thành tốt.
(9) Bạch Hổ (白虎), bài kệ rằng: “Bạch Hổ khiếu nhai nhai, nhân đinh tổn huyết tài, ngưu sự tài quá khứ, mã sự hựu tấn lai (白虎叫涯涯、人丁損血財、牛事才過去、馬事又進來, Bạch Hổ kêu hoài hoài, người thêm tổn tiền tài, chuyện trâu về quá khứ, chuyện ngựa lại về đây).” Sao này chủ yếu có tai họa về tang lễ, phá tài, họa về xe cộ, thương tật; nếu có hóa giải thì sẽ nhẹ bớt; nếu không hóa giải thì quá xấu.
(10) Phước Đức (福德), bài kệ rằng: “Phước Đức nhập mạng du, niên nguyệt tấn tứ ngưu, thiêm hộ tinh tấn khẩu, tài hỷ lưỡng toàn chu (福德入命遊、年月進四牛、添戶並進口、財喜兩全週, Phước Đức đến mạng chơi, năm tháng tăng bò trâu, thêm nhà lại thêm người, tài vui cả hai tròn).” Sao này chủ yếu tốt đẹp, hanh thông, vui vẻ, có thiên tướng, được trời phù hộ, đến đâu gặp xấu hóa tốt, đại thành công.
(11) Điếu Khách (吊客), bài kệ rằng: “Điếu Khách nhập mạng hung, nội ngoại hiếu phục phùng, quan tai tinh nùng huyết, tiểu khẩu đa tao độn (吊客入命凶、內外孝服逢、官災並濃血、小口多遭迍, Điếu Khách đến mạng hung, trong ngoài tang phục chung, tai vạ máu loang chảy, thận trọng miệng tiếng tăm).” Sao này chủ yếu về tang phục, chuyện hung tai, bệnh tật, lo buồn khóc than, trộm cắp, tai nạn về cốt nhục.
(12) Bệnh Phù (病符), bài kệ rằng: “Bệnh Phù nhập mạng hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ phục hữu hình khắc, tác phước miễn tai ương (病符入命凶、孝服重重逢、父服有刑剋、作福免災殃, Bệnh Phù đến mạng hung, tang phục lại trùng phùng, thân phụ mang hình phạt, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu bệnh kéo dài lâu, trong một năm hay vài tháng, kỵ thấy xe tang hoặc ăn các đồ tang lễ, nên cúng tế thì có thể giải được.
(十二藥叉大將): 12 vị Dược Xoa Đại Tướng, còn gọi là Dược Sư Thập Nhị Thần Tướng (藥師十二神將), Thập Nhị Thần Vương (十二神王), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將), là quyến thuộc của đức Phật Dược Sư, những vị phát nguyện hộ trì người nào trì tụng Dược Sư Kinh. Đôi khi họ cũng được xem như là phân thân của Phật Dược Sư để hộ trì 12 lời nguyện của Ngài. Như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師瑠璃光如來本願功德經) có nêu rõ tên của 12 vị Đại Tướng này, gồm:
(1) Cung Tỳ La (s: Kumbhīra, 宮毘羅), còn gọi là Kim Tỳ La (金毘羅), ý dịch là Cực Úy (極畏); thân màu vàng, tay cầm cây chày báu, thuộc chi Hợi, lấy Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) làm bản địa.
(2) Phạt Chiết La (s: Vajra, 伐折羅), còn gọi là Bạt Chiết La (跋折羅), Hòa Kì La (和耆羅), ý dịch là Kim Cang (金剛), thân màu trắng, tay cầm kiếm báu, chi Tuất, lấy Bồ Tát Đại Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 大勢至) làm bản địa.
(3) Mê Xí La (s: Mihira, 迷企羅), còn gọi là Di Khư La (彌佉羅), ý dịch là Chấp Nghiêm (執嚴), thân màu vàng, tay cầm cây gậy báu hay Độc Cô (獨鈷), chi Dậu, lấy Phật A Di Đà (s: Amitābha; 阿彌陀佛) làm bản địa.
(4) An Để La (s: Aṇḍīra, 安底羅), còn gọi là Át Nễ La (頞儞羅), An Nại La (安捺羅), An Đà La (安陀羅); ý dịch là Chấp Tinh (執星), thân màu xanh, tay cầm chùy hay hạt châu báu, chi Thân, lấy Bồ Tát Quan Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) làm bản địa.
(5) Ngạch Nễ La (s: Anila, 額儞羅), còn gọi là Mạt Nhĩ La (末爾羅), Ma Ni La (摩尼羅), ý dịch là Chấp Phong (執風), thân màu hồng, tay cầm cây xoa báu hay cái nỏ, chi Mùi, lấy Bồ Tát Ma Lợi Chi (摩利支) làm bản địa.
(6) San Để La (s: Śaṇḍila, 珊底羅), còn gọi là Ta Nễ La (娑儞羅), Tố Lam La (素藍羅); ý dịch là Cư Xứ (居處); thân màu khói lam, tay cầm bảo kiếm hay vỏ sò; chi Ngọ, lấy Bồ Tát Hư Không Tạng (s: Ākāśagarbha, 虛空藏) làm bản địa.
(7) Nhân Đạt La (s: Indra, 因達羅), còn gọi là Nhân Đà La (因陀羅); ý dịch là Chấp Lực (執力), thân màu hồng, tay cầm côn báu hay cái mâu, chi Tỵ, lấy Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) làm bản địa.
(8) Ba Di La (s: Pajra, 波夷羅), còn gọi là Bà Da La (婆耶羅); ý dịch là Chấp Ẩm (執飲); thân màu hồng, tay cầm chùy báu hay cung tên, chi Thìn, lấy Bồ Tát Văn Thù (s: Mañjuśrī, 文殊) làm bản địa.
(9) Ma Hổ La (s: Mahoraga, 摩虎羅), còn gọi là Bạc Hô La (薄呼羅), Ma Hưu La (摩休羅); ý dịch là Chấp Ngôn (執言); thân màu trắng, tay cầm búa báu, chi Mão; lấy Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師) làm bản địa.
(10) Chơn Đạt La (s: Kinnara, 眞達羅), còn gọi là Chơn Trì La (眞持羅); ý dịch là Chấp Tưởng (執想); thân màu vàng, tay cầm cây Quyên Sách (羂索) hay gậy báu, chi Dần; lấy Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) làm bản địa.
(11) Chiêu Đỗ La (s: Catura, 招杜羅), còn gọi là Chiêu Độ La (招度羅), Châu Đỗ La (朱杜羅), Chiếu Đầu La (照頭羅); ý dịch là Chấp Động (執動); thân màu xanh, tay cầm chùy báu; chi Sửu, lấy Bồ Tát Kim Cang Thủ (金剛手) làm bản địa.
(12) Tỳ Yết La (s: Vikarāla, 毘羯羅), còn gọi là Tỳ Già La (毘伽羅); ý dịch là Viên Tác (圓作), thân màu hồng; tay cầm vòng tròn báu; chi Tý, lấy Phật Thích Ca Mâu Ni (s: Śākyamuni, p: Sakyamuni, 釋迦牟尼) làm bản địa.
Cho nên, 12 vị Thần Tướng này cũng là tên gọi của Kinh Dược Sư như trong Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh cho biết rằng: “Thử pháp môn danh thuyết Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, diệc danh thuyết Thập Nhị Thần Tướng Nhiêu Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú, diệc danh Bạt Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng (此法門名說藥師琉璃光如來本願功德、亦名說十二神將饒益有情結願神咒、亦名拔除一切業障, pháp môn này có tên là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức, cũng gọi là Thập Nhị Thần Tướng Nhiêu Ích Hữu Tình Kết Nguyện Thần Chú, cũng gọi là Bạt Trừ Nhất Thiết Nghiệp Chướng).”
(室生寺, Murō-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Thất Sanh Tự (室生寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu là Thất Sanh Sơn Tất Địa Viện (室生山悉地院), hiện tọa lạc tại Murō-mura (室生村), Uda-gun (宇陀郡), Nara-ken (奈良縣). Năm 681 (niên hiệu Thiên Võ [天武] thứ 10), thể theo ý nguyện của Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), tương truyền Dịch Tiểu Giác (役小角, En-no-Ozunu) sáng lập ra chùa này. Trong khoảng thời gian niên hiệu Bảo Quy (寳龜, 770-780), Hiền Cảnh (賢璟, Kenkyō, 705-793) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) quản lý chùa và đệ tử của ông là Tu Viên (修圓, Shūen, 771-835) kiến lập các ngôi đường tháp vào khoảng thời gian niên hiệu Thiên Trường (天長, 824-834). Vào năm 824 (niên hiệu Thiên Trường thứ 1), Không Hải (空海, Kūkai) đến chùa này, dâng cúng bảo châu Ma Ni và biến nơi đây thành đạo tràng của Chơn Ngôn Mật Giáo. Sao đó, Kiên Tuệ (堅慧, Kene) đến trú trì, làm cho chùa trở nên hưng thạnh, và chùa đã trãi qua một thời gian khá dài phụ thuộc vào sự quản lý của Hưng Phước Tự. Dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), các vị Luật tăng của Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) cũng như Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) đã từng đến trú trì ở đây. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), vào năm 1694 (niên hiệu Nguyên Lộc [元祿] thứ 7), Hộ Trì Viện Long Quang (隆光, Ryūkō, 1649-1724) đến làm trú trì, cho nên chùa trở thành đạo tràng của Phái Phong Sơn (豐山) thuộc Chơn Ngôn Tông, và nhờ sự hiến cúng tịnh tài của Quế Xương Viện (桂昌院, mẹ của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát [德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi]), các đường vũ của chùa được tu sửa lại hoàn chỉnh. Vào thời Cận Đại, Phái Phong Sơn tách riêng ra khỏi chùa và nơi đây trở thành ngôi chùa trung tâm của Phái Thất Sanh Tự. Khuôn viên chùa rất u nhã, người nữ bị cấm không được đến tham bái. Chùa chưa từng bị hỏa tai hay binh hỏa, cho nên các ngôi đường tháp vẫn còn giữ lại nét ngày xưa. Kim Đường (金堂) là kiến trúc được dựng vào đầu thời Bình An (平安, Heian), bên trong ở giữa thờ tượng đứng Thích Ca Như Lai, bên phải nhìn vào có tượng Dược Sư Như Lai và Địa Tạng Bồ Tát, bên trái có tượng Văn Thù Bồ Tát Và Thập Nhất Diện Quan Âm; tất cả đều những kiệt tác đầu thời Bình An. Ngoài ra, còn có tượng Thập Nhị Thần Tướng, thuộc thời đại Liêm Thương. Ngũ Trùng Tháp được kiến lập từ khoảng cuối thời đại Nại Lương (奈良, Nara) cho đến đầu thời Bình An. Chánh Điện là Quán Đảnh Đường (灌頂堂), tôn trí tượng Như Ý Luân Quan Âm (cuối thời Bình An). Ngự Ảnh Đường (御影堂) là Đại Sư Đường (大師堂), được kiến tạo dưới thời Liêm Thương. Bên cạnh đó, còn có Di Lặc Đường (彌勒堂), Hộ Ma Đường (護摩堂), Nhà Kho, v.v. Bảo vật của chùa có các tượng Phật trong Kim Đường, tượng ngồi Thích Ca Như Lai (đầu thời Bình An), tượng đứng Di Lặc Bồ Tát (thời đại Nại Lương), những pháp cụ Mật Giáo, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập