Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác.
(The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương.
(There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng.
(We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Điều quan trọng không phải là bạn nhìn vào những gì, mà là bạn thấy được những gì.
(It's not what you look at that matters, it's what you see.)Henry David Thoreau
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Thập Lục La Hán
KẾT QUẢ TRA TỪ
Thập Lục La Hán:
(十六阿羅漢): còn gọi là Thập Lục A La Hán (十六阿羅漢), Thập Lục Tôn Giả (十六尊者), là các đệ tử đắc đạo của đức Thích Tôn. Căn cứ vào Pháp Trú Ký (法住記) của Tôn Giả Khánh Hữu (慶友尊者) nước Sư Tử (師子) thuộc thế kỷ thứ 2, khi nhập Niết Bàn, đức Phật có phó chúc cho 16 vị A La Hán hiện hữu trên thế gian để truyền bá Phật pháp, đem lại lợi ích cho chúng sanh; cho nên tác phẩm này đã sớm ghi lại danh xưng của 16 vị La Hán này. Còn gọi là Thập Lục A La Hán (十六阿羅漢), Thập Lục Tôn Giả (十六尊者), là các đệ tử đắc đạo của đức Thích Tôn. Căn cứ vào Pháp Trú Ký (法住記) của Tôn Giả Khánh Hữu (慶友尊者) nước Sư Tử (師子) thuộc thế kỷ thứ 2, khi nhập Niết Bàn, đức Phật có phó chúc cho 16 vị A La Hán hiện hữu trên thế gian để truyền bá Phật pháp, đem lại lợi ích cho chúng sanh; cho nên tác phẩm này đã sớm ghi lại danh xưng của 16 vị La Hán này. Đến thời nhà Đường (618-907), khi nhà dịch kinh nổi tiếng Huyền Tráng (玄奘, 602-664) dịch tác phẩm Pháp Trú Ký, tên gọi của 16 vị này được biết đến bằng Hán ngữ, từ đó tín ngưỡng về Thập Lục La Hán cũng bắt đầu thịnh hành dưới thời này. Từ cuối thời nhà Đường cho đến thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-979), các tác phẩm hội họa cũng như điêu khắc về 16 vị La Hán này bắt đầu xuất hiện. Một số danh gia như Lô Lăng Già (盧楞伽), Vương Duy (王維, 701-761), Đào Thủ Lập (陶守立), Quán Hưu (貫休, 832-912). Theo Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trú Ký (大阿羅漢難提蜜多羅所說法住記, bản Hán ngữ là Pháp Trú Ký), danh xưng của 16 vị này là: (1) Tân Độ La Bạt Ra Nọa Xà (s: Piṇḍolabharadvāja, 賓度羅跋囉惰闍) cùng với 1.000 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tây Ngưu Hóa Châu (s: Apara-godhānīya, 西牛貨洲). (2) Ca Nặc Ca Phạt Sa (s: Kanakavatsa, 迦諾迦伐蹉) cùng với 500 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại phương bắc nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅). (3) Ca Nặc Ca Bạt Li Nọa Xà (s: Kanakabharadvāja, 迦諾迦跋厘惰闍) cùng với 600 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Đông Thắng Thân Châu (s: Pūrva-videha, 東勝身洲). (4) Tô Tần Đà (s: Subinda, 蘇頻陀) cùng với 700 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bắc Cu Lô Châu (s: Uttara-kuru, 北倶盧洲). (5) Nặc Cự La (s: Nakula, 諾距羅) cùng với 800 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Nam Thiệm Bộ Châu (s: Jampudīpa, 南贍部洲). (6) Bạt Đà La (s: Bhadra, 跋陀羅) cùng với 900 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Đam Một La Châu (耽沒羅洲). (7) Ca Lí Ca (s: Kālika, 迦理迦) cùng với 1.000 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tăng Già Trà Châu (僧伽荼洲). (8) Phạt Già La Phất Đa La (s: Vajraputra, 伐闍羅弗多羅) cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bát Thích Noa Châu (缽刺拏洲). (9) Thú Bác Ca (s: Jīvaka, 戍博迦) cùng với 900 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú trong Hương Túy Sơn (香醉山). (10) Bán Thác Ca (s: Panthaka, 半託迦) cùng với 1.300 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại cõi trời thứ 33. (11) La Hỗ La (s: Rāhula, 羅怙羅) cùng với 1.100 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Tất Lợi Dương Cù Châu (畢利颺瞿洲). (12) Na Già Tê Na (s: Nāgasena, 那伽犀那) cùng với 1.200 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Bán Độ Ba Sơn (半度波山). (13) Nhân Yết Đà (s: Aṅgaja, 因揭陀) cùng với 1.300 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Quảng Hiếp Sơn (廣脅山). (14) Phạt Na Ba Tư (s: Vanavāsin, 伐那婆斯) cùng với 1.400 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Khả Trú Sơn (可住山). (15) A Thị Đa (s: Ajita, 阿氏多) cùng với 1.500 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Thứu Phong Sơn (鷲峰山). (16) Chú Đồ Bán Thác Ca (s: Cūḍapanthaka, 注荼半托迦, tức Châu Lợi Bàn Đà Già [周利槃陀伽]) cùng với 1.600 A La Hán quyến thuộc, phần lớn trú tại Trì Tụ Sơn (持軸山) Tại các già lam, tự viện có an trí 16 tôn tượng La Hán này, 18 La Hán hay 500 La Hán. Như vậy 18 La Hán cũng phát xuất từ 16 La Hán nêu trên, sau này dân gian Trung Quốc thêm vào 2 vị nữa, thành ra con số 18. Thuyết Thập Bát La Hán rất thịnh hành tại Trung Quốc cũng như Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Việt Nam, v.v. Có nhiều nguyên nhân giải thích việc biến thành Thập Bát La Hán, trong đó có thuyết giải thích người dân cổ đại Trung Quốc cho rằng con số 9 là số cát tường, tốt đẹp; vì vậy từ cuối thời nhà Đường người ta thêm 2 vị vào trong Thập Lục La Hán. Đến sau thời nhà Tống, Nguyên, thuyết về Thập Bát La Hán trở thành rất phổ cập trong dân gian cũng như văn học Trung Quốc; như trong tác phẩm Tây Du Ký (西遊記) có câu chuyện 18 vị La Hán đấu với Ngộ Không. Theo Bí Điện Châu Lâm Tục Biên (秘殿珠林續編) được hình thành dưới thời nhà Thanh, vua Càn Long (乾隆) có bài đề tụng 2 vị tôn giả cuối cùng trong 18 vị này là Hàng Long La Hán (降龍羅漢) tức Ca Diếp Tôn Giả (迦葉尊者), Phục Ma La Hán (伏虎羅漢) tức Di Lặc Tôn Giả (彌勒尊者). Ngoài ra, còn có thuyết khác về Thập Bát La Hán như: (1) Hàng Long La Hán (降龍羅漢), tức Khánh Hữu Tôn Giả (慶友尊者), tương truyền đã từng hàng phục con rồng ác độc. (2) Tọa Lộc La Hán (坐鹿羅漢), tức Tân La Bạt La Đa Tôn Giả (賓羅跋羅多尊者), từng cỡi hươu vào hoàng cung khuyến dụ quốc vương học Phật, tu hành. (3) Cử Bát La Hán (舉缽羅漢), tức Ca Nặc Ca Bạt Li Tùy Các (迦諾迦跋厘隋閣), là hành giả từng cầm bình bát đi khất thực hóa duyên. (4) Quá Giang La Hán (過江羅漢), tức Bạt Đà La Tôn Giả (跋陀羅尊者), tương truyền ông qua sông nhẹ như con chuồn chuồn. (5) Phục Hổ La Hán (伏虎羅漢), tức Tân Đầu Lô Tôn Giả (賓頭盧尊者), từng hàng phục mãnh hổ. (6) Tĩnh Tọa La Hán (靜坐羅漢), tức Nặc Cự La Tôn Giả (諾距羅尊者), còn gọi là Đại Lực La Hán (大力羅漢), do vì trong thời quá khứ ông xuất thân là võ sĩ, cho nên sức mạnh vô song. (7) Trường Mi La Hán (長眉羅漢), tức A Thị Đa Tôn Giả (阿氏多尊者), tương truyền khi ông ra đời có hai sợi lông mi dài. (8) Bố Đại La Hán (布袋羅漢), tức Nhân Yết Đà Tôn Giả (因揭陀尊者), thường mang trên một túi vải, thường mở miệng là cười. (9) Khán Môn La Hán (看門羅漢), tức Chú Đồ Bán Thác Ca Tôn Giả (注荼半托迦), hay Châu Lợi Bàn Đà Già (周利槃陀伽), vì người tận trung giữ gìn chức phận mình. (10) Thám Thủ La Hán (探手羅漢), tức Bán Thác Ca Tôn Giả (半托迦尊者), nhân khi ngồi thường chỉ tay lên không trung nên có tên như vậy. (11) Trầm Tư La Hán (沉思羅漢), tức La Hỗ La Tôn Giả (羅怙羅尊者), một trong 10 đại đệ tử của Phật, lấy mật hạnh làm đầu. (12) Kỵ Tượng La Hán (騎象羅漢), tức Ca Lí Ca Tôn Giả (迦理迦尊者), hay Tuần Tượng Sư (馴象師, bậc thầy thuần hóa voi nên thường cỡi voi). (13) Hoan Hỷ La Hán (歡喜羅漢), tức Ca Nặc Phạt Sa Tôn Giả (迦諾伐蹉尊者), nguyên là một nhà hùng biện thời cổ đại Ấn Độ. (14) Tiếu Sư La Hán (笑獅羅漢), tức La Phất Đa Tôn Giả (羅弗多尊者), nguyên là thợ săn, nhân học Phật nên từ bỏ sát sanh, sư tử đến tạ ơn, nên có tên như vậy. (15) Khai Tâm La Hán (開心羅漢), tức Thú Bác Ca Tôn Giả (戍博迦尊者), giúp người hiểu được Phật trong tâm mình. (16) Thác Tháp La Hán (托塔羅漢), tức Tô Tần Đà (蘇頻陀), là đệ tử được đức Phật thâu nhận cuối cùng; ông nhớ đến đức Phật nên thường mang theo tháp Phật trên tay. (17) Ba Tiêu La Hán (芭蕉羅漢), tức Phạt Na Bà Tư Tôn Giả (伐那婆斯尊者), sau khi xuất gia ông thường ngồi tu hành công phu dưới gốc cây chuối, nên có tên như vậy. (18) Oạt Nhĩ La Hán (挖耳羅漢), tức Na Ca Tê Na Tôn Giả (那迦犀那尊者), do ông nổi tiếng là nhĩ căn thanh tịnh nên thường được gọi là La Hán Móc Tai.
Xem thêm kết quả tìm kiếm mở rộng Xem thêm kết quả tìm kiếm mở rộng
Tha Nga Thanh Lương Tự
(嵯峨清涼寺, Sagaseiryō-ji) hay Thanh Lương Tự (清涼寺, Seiryō-ji): ngôi chùa của Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại số 46 Sagashakadōfujinoki-chō (嵯峨釈迦堂藤ノ木町), Sakyō-ku (右京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Ngũ Đài Sơn (五台山), thường được gọi là Tha Nga Thích Ca Đường (嵯峨釋迦堂). Tượng thờ chính của chùa là Thích Ca Như Lai (quốc bảo). Ban đầu chùa thuộc về Hoa Nghiêm Tông, rồi sau đến Thiên Thai, Chơn Ngôn, Niệm Phật Tông, nhưng hiện tại thì thuộc về Tịnh Độ Tông. Ngôi chùa này nguyên sơ là sơn trang của Hoàng Tử Nguyên Dung (源融), con của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823), sau đó được cải thành chùa với tên là Thê Hà Tự (棲霞寺). Đến năm 987 (niên hiệu Vĩnh Diên [永延] thứ nhất), vị Tăng Điều Nhiên (奝然) lấy bức tượng Thích Ca đem từ nhà Tống về tôn trí tại đây, sau đó vào năm 1016, khi Điều Nhiên qua đời, thì cao đệ là Thạnh Toán (盛算) mới theo di chí của sư huynh mà tiếp tục khai sáng chùa. Nguyên bản tên chùa Thê Hà Tự hiện vẫn còn lưu lại ở A Di Đà Đường. Tượng Thích Ca đứng bằng gỗ ở chùa này cao 6 mét, có hình tướng đặc dị nhất ở Nhật, tương đương với tượng Phật ở Mathura, Ấn Độ, là loại tượng gỗ bằng Chiêu Đàn. Tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Phật, một danh tác vào đầu thời đại Đằng Nguyên, được gọi là Tha Nga Quang Phật (嵯峨光佛). Chùa này cũng đã mấy lần bị hỏa tai cháy rụi, các đường vũ hiện tại là những kiến trúc do vị trú trì Nghiêu Trấn Hòa Thượng (堯鎭和上) tái tạo nên theo mệnh lệnh của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) vào khoảng niên hiệu Văn Lộc (文祿, 1592-1596). Quần thể kiến trúc hiện tại của chùa có Chánh Điện, Tàng Kinh Các, Dược Sư Đường, Linh Bảo Tháp, Sơn Môn, Cổ Tháp, v.v. Chùa còn lưu giữ nhiều bảo vật thuộc dạng quốc bảo hay tài sản văn hóa trọng yếu như tượng đứng Thích Ca Như Lai, bằng gỗ, do Điều Nhiên tạc nên vào năm 985 tại Khai Nguyên Tự (開元寺) ở Đài Châu (台州), khi đang còn ở bên nhà Tống cầu pháp; tượng ngồi A Di Đà Tam Tôn, bằng gỗ, nguyên lai là tượng thờ chính của Thê Hà Tự, được hoàn thành vào năm 896, nhân lễ Húy Kỵ của Hoàng Tử Nguyên Dung; 16 bức tranh màu trên lụa tượng Thập Lục La Hán, v.v.
Thiền Lâm Tự
(禪林寺, Zenrin-ji): còn gọi là Thánh Chúng Lai Nghênh Sơn (聖眾來迎山), tục xưng là Vĩnh Quán Đường (永觀堂), là ngôi chùa trung tâm của Phái Tây Sơn (西山派) thuộc Tịnh Độ Tông; hiện tọa lạc tại Yōgandō-chō (永觀堂町), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市). Vào năm 855 (niên hiệu Tề Hành [齊衡] thứ 2), Chơn Thiệu (眞紹) cải biến ngôi sơn trang của Đằng Nguyên Quan Hùng (藤原關雄) thành Vô Lượng Thọ Viện (無量壽院), làm đạo tràng cầu nguyện trấn hộ quốc gia. Sau đó, vào năm 863 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 5), chùa được ban sắc phong của triều đình với tên gọi là Thiền Lâm Tự; đến năm 877 (niên hiệu Nguyên Khánh [元慶] nguyên niên), Ngự Nguyện Đường (御願堂) được xây dựng, lãnh vức của chùa cũng được mở rộng thêm. Chư vị danh đức như Tông Duệ (宗叡), Thâm Giác (深覺), Tĩnh Biến (靜遍) thay nhau làm cho tông phong của chùa hưng thạnh; nhưng trong khoảng thời gian niên hiệu Thừa Lịch (承曆, 1077-1080), khi Luật Sư Vĩnh Quán (永觀) của Tam Luận Tông đến trú trì chùa, kiến lập Đông Nam Viện (東南院) để giảng thuyết về Tam Luận và tuyên dương pháp môn Niệm Phật. Tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Phật có câu chuyện liên quan đến Vĩnh Quán. Sau đó, Tịnh Âm (淨音) của Phái Tây Sơn thuộc Tịnh Độ Tông đến đây trú trì, cải đổi chùa thành đạo tràng Niệm Phật; và từ đó trở đi, chùa trở thành thánh địa của phái này. Trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa cũng bị suy tàn, nhưng đến thời đại Giang Hộ thì phục hưng lại. Bảo vật của chùa liên quan đến Tịnh Độ Giáo có rất nhiều như Sơn Việt A Di Đà Đồ (山越阿彌陀圖), Lai Nghênh Đồ (來迎圖), Đương Ma Mạn Trà La Đồ (當麻曼荼羅圖), Dung Thông Niệm Phật Duyên Khởi (融通念佛緣起), Thích Ca Tam Tôn, 3 bức Thập Đại Đệ Tử, 16 bức Thập Lục La Hán, v.v.
Để giới hạn kết quả tìm kiếm chính xác hơn, quý vị có thể nhập 2 hoặc 3 chữ cái đầu vần. Ví dụ, để tìm những chữ như thiền, thiện... quý vị nên nhập thi thay vì t... sẽ cho một kết quả gần với yêu cầu của quý vị hơn.
_______________
MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Gió Bấc
Hoa nhẫn nhục
Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)
Dưới bóng đa chùa Viên Giác
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.125 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 Bữu Phước Chúc Huy Minh Pháp Tự minh hung thich Diệu Âm Phúc Thành Phan Huy Triều Phạm Thiên Trương Quang Quý Johny Dinhvinh1964 Pascal Bui Vạn Phúc Giác Quý Trần Thị Huyền Chanhniem Forever NGUYỄN TRỌNG TÀI KỲ Dương Ngọc Cường Mr. Device Tri Huynh Thích Nguyên Mạnh Thích Quảng Ba T TH Tam Thien Tam Nguyễn Sĩ Long caokiem hoangquycong Lãn Tử Ton That Nguyen ngtieudao Lê Quốc Việt Du Miên Quang-Tu Vu phamthanh210 An Khang 63 zeus7777 Trương Ngọc Trân Diệu Tiến ... ...