Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Trong sự tu tập nhẫn nhục, kẻ oán thù là người thầy tốt nhất của ta. (In the practice of tolerance, one's enemy is the best teacher.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tây Trúc »»
(蝶夢): giấc mơ biến thành con bướm, còn gọi là hồ điệp mộng (蝴蝶夢), hồ điệp chi mộng (蝴蝶之夢). Sự tích này được thuật lại trong Tề Vật Luận (齊物論) của Trang Tử (莊子). Một hôm nọ, Trang Chu nằm mộng thấy mình biến thành con bướm, bản thân ông rất vui mừng, hân hoan tự đắc, quên đi chẳng biết mình là Trang Chu. Đến khi tỉnh dậy, mới biết mình là Trang Chu; chẳng biết giấc mộng của Trang Chu chính la con bướm, giấc mộng của con bướm lại là Trang Chu. Câu chuyện này nói lên tâm cảnh Vạn Vật Nhất Thể (萬物一體, vạn vật cùng một thể), không có sự phân biệt giữa chủ thể và khách thể. Trong U Mộng Ảnh (幽夢影) của Trương Triều (張潮, 1650-?) nhà Thanh có một câu nổi tiếng là: “Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã (莊周夢爲蝴蝶、莊周之幸也、蝴蝶夢爲莊周、蝴蝶之不幸也, Trang Chu mơ làm con bướm, Trang Chu thật may mắn vậy; con bướm mơ làm Trang Chu, con bướm quả bất hạnh vậy).” Câu chuyện này còn nêu rõ triết lý nhân sinh vô thường, như mộng huyễn, thời gian trôi qua như chớp mắt, giàu sang, phú quý chẳng thể cầu mong được. Trong bài Cổ Phong Ngũ Thập Cửu Thủ (古風五十九首) của thi sĩ Lý Bạch (李白, 701-762) có đoạn: “Trang Chu mộng hồ điệp, hồ điệp vi Trang Chu, nhất thể cánh biến dị, vạn sự lương du du, nãi tri bồng lai thủy, phục tác thanh thiển lưu (莊周夢蝴蝶、蝴蝶爲莊周、一體更變易、萬事良悠悠、乃知蓬萊水、復作清淺流, Trang Chu mơ bươm bướm, bươm bướm là Trang Chu, một thể lại thành khác, vạn sự tốt dài lâu, mới biết bèo trôi dạt, lại làm dòng nước trôi).” Hơn nữa, trong bài Mãn Giang Hồng (滿江紅) của Cát Đàm (葛郯, ?-?) nhà Tống, được thâu lục trong Toàn Tống Từ (全宋詞), có câu: “Bất quản phù sanh như điệp mộng (不管浮生如蝶夢, chẳng kể phù sinh như mộng bướm).” Câu “điệp mộng mang mang, Tây Trúc hà bằng chi siêu độ (蝶夢茫茫、西竺何憑之超度)” có nghĩa giấc mơ bướm mờ mịt, mênh mang, không biết nương vào đâu để được siêu độ về cõi Tây Trúc, quốc độ của chư Phật.
(拈花、拈華): đưa cành hoa lên. Từ này thường đi theo cụm từ niêm hoa vi tiếu (拈花微笑, đưa cành hoa và mĩm miệng cười); như trong Liên Đăng Hội Yếu (聯燈會要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1557) quyển 1 có ghi rõ điển tích rằng: “Thế Tôn tại Linh Sơn Hội thượng, niêm hoa thị chúng, chúng giai mặc nhiên, duy Ca Diếp phá nhan vi tiếu. Thế Tôn vân: 'Ngô hữu Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, phú chúc Ma Ha Ca Diếp' (世尊在靈山會上、拈華示眾、眾皆默然、唯迦葉破顏微笑、世尊云、吾有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、不立文字、敎外別傳、付囑摩訶迦葉, đức Thế Tôn trên Hội Linh Sơn, đưa hoa ra dạy chúng, đại chúng đều im lặng, chỉ có Ca Diếp chuyển mặt mĩm cười. Thế Tôn bảo rằng: 'Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, tâm vi diệu Niết Bàn, thật tướng không tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập cước trên chữ nghĩa, truyền riêng ngoài giáo lệ, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp').” Gọi cho đủ là niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu (拈華瞬目破顏微笑, đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mĩm cười). Từ thời nhà Tống trở đi, trong Thiền Tông rất thịnh hành câu chuyện này, vốn căn cứ vào Phẩm Phạm Vương Quyết Nghi (梵王決疑品) thứ 2 của Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 26), cũng như nương vào thuyết cho rằng Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) là sơ Tổ của Thiền Tông Tây Trúc. Tuy nhiên, thuyết niêm hoa vi tiếu này vẫn còn nhiều vấn đề khả nghi, chưa giải quyết rõ. Còn sự kiện Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp thọ nhận phó chúc chánh pháp thì được nêu rõ trong Bắc Bản Niết Bàn Kinh (北本涅槃經) quyển 2. Trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 6 có câu rằng: “Niêm hoa ngã Phật tại Linh Sơn, Ca Diếp Đầu Đà hốt phá nhan, kim khẩu mật ngôn thân phú chúc, bất duy thiên thượng dữ nhân gian (拈花我佛在靈山、迦葉頭陀忽破顏、金口密言親付囑、不唯天上與人間, đưa hoa đức Phật tại Linh Sơn, Đầu Đà Ca Diếp chợt hiểu ràng, lời vàng mật ngôn nay phú chúc, đâu chỉ trên Trời với nhân gian).” Hay trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 2 lại có câu: “Thế Tôn phi thử nhãn, bất năng biện Ca Diếp chi nhất tiếu; Ca Diếp phi thử nhãn, bất năng khế Thế Tôn chi niêm hoa (世尊非此眼、不能辨迦葉之一笑、迦葉非此眼、不能契世尊之拈花, Thế Tôn không có con mắt này, chẳng thể nào hiểu được nụ cười của Ca Diếp; Ca Diếp không có con mắt này, chẳng thể nào lãnh hội được Thế Tôn đưa hoa ra).” Trong Thiền Môn có bài Tán Tổ Sư rằng: “Niêm hoa ngộ chỉ, Tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa, chánh pháp vĩnh xương minh (拈花悟旨、祖道初興、緜延四七演眞乘、六代遠傳燈、奕葉相承、正法永昌明, đưa hoa ngộ ý, Tổ đạo hưng long, dài lâu hai tám diễn chơn thừa, sáu đời xa truyền đăng, nối dõi kế thừa, chánh pháp mãi rạng ngời).”
(西天): có hai nghĩa chính. (1) Là từ xưng hô của Trung Hoa ngày xưa đối với Ấn Độ. Thời cổ đại, Ấn Độ được gọi là Thiên Trúc (天竺), Tây Trúc (西竺); vốn nằm ở phía Tây Trung Hoa, nên có tên là Tây Thiên. Như trong bài Tích Trượng Ca Tống Minh Sở Thượng Nhân Quy Phật Xuyên (錫杖歌送明楚上人歸佛川) của Hoàng Phủ Tằng (皇甫曾, ?-?) nhà Đường có câu: “Thượng nhân viễn tự Tây Thiên chí, Đầu Đà hạnh biến Nam triều tự (上人遠自西天至、頭陀行遍南朝寺, Thượng nhân xa từ Tây Thiên đến, hạnh Đầu Đà khắp chùa Nam triều).” Hay trong bài thơ Dĩ Thừa Yến Mặc Tặng Tăng Pháp Nhất (以承宴墨贈僧法一) của Triều Xung Chi (晁沖之, ?-?) nhà Tống cũng có câu: “Vương hầu cựu vật nhân kim đắc, cánh tả Tây Thiên bối diệp thư (王侯舊物人今得、更寫西天貝葉書, vương hầu vật cũ nay có được, lại chép Tây Thiên lá bối kinh).” Trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1315) quyển 16, phần Thất Trung Ngữ Yếu (室中語要), lại có đoạn: “Đông Tây Nam Bắc, thất túng bát hoành, triêu đáo Tây Thiên, mộ quy Đường Độ (東西南北、七縱八橫、朝到西天、暮歸唐土, Đông Tây Nam Bắc, bảy dọc tám ngang, sáng đến Tây Thiên [Ấn Độ], tối về Đường Độ [Trung Hoa]).” Hoặc trong Hạt Đường Huệ Viễn Thiền Sư Quảng Lục (瞎堂慧遠禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1360) quyển 1 lại có đoạn: “Tự thử Tây Thiên tứ thất, Đông Độ nhị tam, Phật Phật thọ chi vô cùng, đăng đăng truyền chi bất tận (自此西天四七、東土二三、佛佛授之無窮、燈燈傳之不盡, từ đây Tây Thiên hai tám, Đông Độ sáu vị, Phật Phật truyền thọ vô cùng, đèn đèn nối nhau bất tận).” (2) Đối với tín đồ Tịnh Độ Giáo, từ này chỉ cho thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂) được đề cập trong Kinh A Di Đà.
(石雨明方, Sekiu Myōhō, 1593-1648): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Thạch Vũ (石雨), sinh ngày 29 tháng giêng năm thứ 21 (1593) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh, xuất thân Võ Đường (武塘), Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), họ là Trần (陳). Ông đến tham học và xuất gia với Tây Trúc Tông (西築宗). Vào năm thứ 43 (1615) niên hiệu Vạn Lịch, ông đến tham yết Trạm Nhiên Viên Trừng (湛然圓澄) ở Thạch Phật Tự (石佛寺), Gia Hưng (嘉興). Tu hành khắc khổ trong vòng 7 năm, cuối cùng ông kế thừa dòng pháp của vị này. Đến năm thứ 5 (1632) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông làm trú trì Thiên Hoa Tự (天華寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府, Tỉnh Triết Giang) và sau đó từng sống qua các chùa khác như Vân Môn Thánh Hiển Tự (雲門聖顯寺), Bảo Thọ Sơn Quang Hiếu Tự (寶壽山光孝寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), Di Sơn Tây Thiền Tự (怡山西禪寺), Tuyết Phong Tự (雪峰寺) ở Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), Linh Sơn Tự (靈山寺) ở Đinh Châu (汀州, Tỉnh Phúc Kiến), Phổ Minh Tự (普明寺) ở Phủ Kiến Ninh (建寧府, Tỉnh Phúc Kiến), Linh Phong Tự (靈峰寺) ở Khảo Đình (考亭), Long Môn Sơn Ngộ Không Tự (龍門山悟空寺) ở Hàng Châu, Đông Tháp Quảng Phước Tự (東塔廣福寺) ở Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), Cao Đình Sơn Phật Nhật Tự (皐亭山佛日寺) ở Hàng Châu, Tượng Điền Tự (象田寺) và Lan Ngạc Sơn Tự (蘭萼山寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府). Vào ngày mồng 8 tháng giêng năm thứ 5 (1648) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông thị tịch, hưởng thọ 56 tuổi đời và 35 hạ lạp. Môn nhân là Viễn Môn Tịnh Trú (遠門淨住) biên tập bộ Thạch Vũ Thiền Sư Pháp Đàn (石雨禪師法檀) 20 quyển và soạn bản Hành Trạng (行狀).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập