Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người vấp ngã mà không cố đứng lên thì chỉ có thể chờ đợi một kết quả duy nhất là bị giẫm đạp.Sưu tầm
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Vết thương thân thể sẽ lành nhưng thương tổn trong tâm hồn sẽ còn mãi suốt đời. (Stab the body and it heals, but injure the heart and the wound lasts a lifetime.)Mineko Iwasaki
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tất Đàm »»
(安然, Annen, 841-915?): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, húy là An Nhiên (安然), thông xưng là Ngũ Đại Viện A Xà Lê (五大院阿闍梨), Bí Mật Đại Sư (秘密大師); hiệu là Phước Tập Kim Cang (福集金剛), Chơn Như Kim Cang (眞如金剛); thụy hiệu là A Giác Đại Sư (阿覺大師); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Hồi còn nhỏ, ông theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin), rồi đến năm 859 thì thọ Bồ Tát giới với vị này. Sau khi Viên Nhân qua đời, ông theo hầu Biến Chiếu (遍照, Henjō) và chuyên tâm nghiên cứu về Mật Giáo cũng như Hiển Giáo. Năm 877, ông nhận được điệp phù cho sang nhà Đường cầu pháp, nhưng việc ông có lên thuyền đi hay không thì có nhiều thuyết khác nhau. Cùng năm đó, ông được trao truyền cho các sở học về Tất Đàm, Kim Cang Giới của Viên Nhân từ Đạo Hải (道海, Dōkai) và Trường Ý (長意, Chōi). Vào năm 984, ông lại được Biến Chiếu trao truyền cho Thai Tạng (胎藏) cũng như Kim Cang Giới Thọ Vị Quán Đảnh (金剛界授位灌頂), và trở thành Tam Bộ Đô Pháp Truyền Pháp Đại A Xà Lê (三部都法傳法大阿闍梨). Ông dựng nên Ngũ Đại Viện (五大院) ở trên Tỷ Duệ Sơn và sống ở đây chuyên tâm nghiên cứu cũng như trước tác, nên ông được gọi là bậc tiên đức của Ngũ Đại Viện. Trước tác của ông có Bắc Lãnh Giáo Thời Vấn Đáp Sao (北嶺敎時問答抄), Bồ Đề Tâm Nghĩa Lược Vấn Đáp Sao (菩提心義略問答抄), Phổ Thông Thọ Bồ Tát Giới Nghi Quảng Thích (普通授菩薩戒儀廣釋), Bát Gia Bí Lục (八家秘錄), Thai Kim Tô Đối Thọ Ký (胎金蘇對受記), Giáo Thời Tránh Luận (敎時諍論), v.v., tổng cọng hơn 100 bộ. Trong khi đó, theo truyền thuyết về An Nhiên thì đương thời cũng có một nhân vật cùng tên với ông, nhưng người đó đến giữa đời bần cùng đói mà chết. An Nhiên kế thừa Viên Nhân và Viên Trân (圓珍, Enchin), tuyên dương giáo chỉ Viên Mật Nhất Trí của Thiên Thai Tông Nhật Bản, lập nên Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋) của Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎) và làm cho Mật Giáo hưng long tột đỉnh.
(宥快, Yūkai, 1345-1416): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, húy là Hiền Vinh (賢榮), Thoại Nghiêm (瑞嚴), Hựu Khoái (宥快); hiệu là Tể Tướng Phòng (宰相房), Tánh Nghiêm Phòng (性嚴房); xuất thân vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, thuộc Kyoto); con của Tả Thiếu Tướng Đằng Nguyên Thật Quang (左少將藤原實光). Ông theo xuất gia với Vinh Trí (榮智) ở Tá Cửu Gian Tự (佐久間寺), vùng Thường Lục (常陸, Hitachi). Sau ông theo hầu Tín Hoằng (信弘) ở Bảo Tánh Viện (寶性院) trên Cao Dã Sơn, học về Sự Tướng, Giáo Tướng cũng như Tất Đàm (悉曇), rồi kế thừa các dòng Trung Viện (中院), Tam Bảo Viện (三寶院), Tây Viện (西院) và Trì Minh Viện (持明院). Năm 1374, ông làm trú trì Bảo Tánh Viện; đến năm sau thì trước tác bộ Bảo Kính Sao (寶鏡抄) để phê phán Dòng Lập Xuyên (立川流). Vào năm 1375, ông theo học pháp với Hưng Nhã (興雅) ở An Tường Tự (安祥寺); đến năm 1406 thì giao Bảo Tánh Viện lại cho đệ tử Thành Hùng (成雄) và lui về ẩn cư tại Thiện Tập Viện (善集院). Ông rất tinh thông về Giáo Tướng, tự xưng là Bảo Môn Phái (寶門派), cùng với Thọ Môn Phái (壽門派) của Trường Giác (長覺), hình thành nên hệ thống giáo học của Cao Dã Sơn. Đệ tử phú pháp của ông có Hựu Tín (宥信), Thành Hùng (成雄), Khoái Nhã (快雅), Khoái Tôn (快尊), v.v. Trước tác của ông để lại có rất nhiều như Đại Nhật Kinh Khẩu Chi Sớ Sao (大日經口之疏鈔) 85 quyển, Tông Nghĩa Quyết Trạch Tập (宗義決擇集) 20 quyển, Bảo Kính Sao (寶鏡抄) 1 quyển, Nhị Giáo Luận Sao (二敎論鈔) 30 quyển, Tất Đàm Quyết Trạch Tập (悉曇決擇集) 5 quyển, v.v.
(浮圖, 浮屠): còn gọi là Phật Đồ (佛圖), ý dịch của chữ stūpa (s.) và thūpa (p.), nghĩa là tháp. Trong Ngụy Thư (魏書), quyển 114, phần Thích Lão Chí (釋老志) có đoạn: “Tự lạc trung cấu Bạch Mã Tự, thạnh sức Phật Đồ, họa tích thậm diệu, vi tứ phương thức; phàm cung tháp chế độ, do y thiên trúc cựu trạng nhi trùng cấu chi, tùng nhất cấp chí tam, ngũ, thất, cửu, thế nhân tương thừa, vị chi Phù Đồ (自洛中構白馬寺、盛飾佛圖、畫跡甚妙、爲四方式、凡宮塔制度、猶依天竺舊狀而重構之、從一級至三、五、七、九、世人相承、謂之浮圖, trong kinh đô xây dựng Bạch Mã Tự, trang trí tháp Phật, nét vẽ tuyệt diệu, theo bốn phương thức; phàm chế độ cung tháp, đều nương theo hình trạng cũ của Thiên Trúc [Ấn Độ] mà kiến lập, từ một tầng cho đến ba, năm, bảy, chín tầng; người đời kế thừa, gọi đó là Phù Đồ).” Như trong bài Khương Cư Quốc Hội Tôn Giả Tượng Tán (康居國會尊者像贊) của Tử Bá Tôn Giả Toàn Tập (紫柏尊者全集, CBETA No. 1452) quyển 18 có câu: “Thường văn Tôn Quyền sơ kiến Hội công, nghi kỳ hình phục, cập cầu Xá Lợi hữu nghiệm, toại kiến Phù Đồ (嘗聞孫權初見會公、疑其形服、及求舍利有驗、遂建浮圖, thường nghe rằng ban đầu khi Tôn Quyền mới gặp Khương Tăng Hội thì nghi ngờ hình tướng vị này, bèn cầu xin Xá Lợi và có linh nghiệm, cuối cùng kiến lập tháp thờ).” Hay như trong Tát Đàm Phân Đà Lợi Kinh (薩曇分陀利經, Taishō No. 265) cũng có đoạn: “Thị thời, thất bảo Phù Đồ, dũng tùng địa xuất thượng chí Phạm Thiên, Phù Đồ trung ương, hữu thất bảo đại Giảng Đường, huyền tràng phan hoa cái, danh hương thanh khiết (是時、七寶浮圖、涌從地出上至梵天、浮圖中央、有七寶大講堂、懸幢幡華蓋、名香清潔, lúc bấy giờ, tháp bằng bảy báu, từ đất vọt ra lên đến Phạm Thiên, giữa trung tâm tháp, có Giảng Đường bằng bảy báu, treo tràng phan, lọng báu, hương thơm tinh khiết).” Trong Tăng Quảng Hiền Văn (增廣賢文) có câu: “Cứu nhân nhất mạng, thắng tạo thất cấp Phù Đồ (救人一命、勝造七級浮屠, cứu người một mạng, hơn tạo bảy cấp tháp thờ).” Và tục ngữ dân gian Việt Nam cũng có câu tương tự như vậy: “Dẫu xây chín bậc Phù Đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người.”
(重譽, Chōyo, ?-?): vị Tăng của Tam Luận Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Bình An, húy là Trùng Dự (重譽), hay Triều Dự (朝譽), tự là Lý Giáo (理敎). Ông theo học Tam Luận với Giác Thọ (覺樹) ở Đông Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), rồi thọ nhận Mật Giáo của Dòng Tiểu Dã (小野流) nơi Tĩnh Dự (靜譽). Ông ít thích xã giao, đến sống ở Quang Minh Sơn Tự (光明山寺) thuộc vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro) và chuyên tâm tu Tịnh Độ Giáo. Trước tác của ông có Thập Trụ Tâm Luận Sao (十住心論鈔) 3 quyển, Tất Đàm Tự Ký Sao (悉曇字記鈔) 2 quyển, Bí Tông Giáo Tướng Sao (秘宗敎相鈔) 10 quyển, Bí Tông Thâm Mật Sao (秘宗深密鈔) 3 quyển, v.v.
(長覺, Chōkaku, 1340-1416): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Nam Bắc Triều và Thất Đinh, vị Tổ của Thọ Môn Học Phái (壽門學派) thuộc Cao Dã Sơn, húy là Trường Giác (長覺), tên lúc nhỏ là Phạm Thiên Hoàn (梵天丸), tự là Bổn Trí Phòng (本智房); xuất thân vùng Xuất Vũ (出羽, Dewa), con của An Đạt Thời Trọng (安達時重). Năm 1352, ông theo xuất gia với Trường Tuyên (長宣) ở vùng Xuất Vũ, rồi đến năm 1356 thì theo nhập chúng ở Đông Thiền Viện (東禪院) trên Cao Dã Sơn; học Tất Đàm với Nghĩa Tuyên (義宣), cũng như giáo nghĩa của các dòng phái khác như Dòng Trung Viện với Lại Viên (賴圓), Dòng Quảng Trạch với Tuyên Hựu (賴祐), v.v. Sau đó, ông còn học cả Thiền, thần đạo và kế thừa Dòng Tây Viện từ Tuấn Dự (俊譽) ở Vô Lượng Thọ Viện (無量壽院) của vùng Liêm Thương. Vào năm 1403, ông làm Thủ Tòa của Vô Lượng Thọ Viện, hình thành nên Thọ Môn Học Phái (tức Bất Nhị Môn Phái [不二門派]), cùng sánh đôi với Bảo Môn Học Phái (寶門學派, tức Nhi Nhị Môn Phái [而二門派]) của Hựu Khoái (宥快) ở Bảo Tánh Viện (寶性院). Như vậy, lúc bấy giờ tăng lữ trong sơn môn phân chia thành hai phái rõ rệt, và chính ông đã tạo nên một thời kỳ hưng thịnh tột độ cho Cao Dã Sơn. Tương truyền ông là phân thân của Không Hải Đại Sư. Đệ tử phú pháp của ông có Trường Dự (長譽), Trường Nhiệm (長任), Thắng Nghĩa (勝義), v.v. Trước tác của ông lưu lại cho hậu thế có Đại Sớ Chỉ Nam Sao (大疏指南鈔) 9 quyển, Thích Luận Thập Nhị Sao Tư Ký (釋論十二鈔私記) 10 quyển, Tất Đàm Quyết Trạch Sao (悉曇決擇鈔) 5 quyển, Tất Đàm Tự Ký Sao (悉曇字記鈔) 5 quyển, Phàm Thánh Lục Đại Nguyên Sự (凡聖六大元事), v.v.
(徃生淨土神呪): còn gọi là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni (抜一切業障根本得生淨土陀羅尼), Vãng Sanh Quyết Định Chơn Ngôn (徃生決定眞言). Câu thần chú này được tìm thấy trong Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Thần Chú (抜一切業障根本得生淨土神呪, Taishō No. 368) do Lưu Tống Cầu Na Bạt Đà La (s: Guṇabhadra, 求那跋陀羅) trùng dịch. Và một số bản có nội dung tương tự với thần chú này như Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō No. 901) do Đường A Địa Cù Đa (阿地瞿多) dịch, Cam Lồ Đà La Ni Chú (甘露陀羅尼呪, Taishō No. 901) do Đường Thật Xoa Nan Đà (s: Śikṣānanda, 實叉難陀) dịch, A Di Đà Phật Thuyết Chú (阿彌陀佛說呪, Taishō No. 369), thất dịch, Phật Thuyết Vô Lượng Công Đức Đà La Ni Kinh (佛說無量功德陀羅尼經, Taishō No. 1317) do Tống Pháp Hiền (法賢) dịch. Nguyên âm Hán ngữ của thần chú này là: “Nam mô a di đa bà dạ, đa tha già đa dạ, đa địa dạ tha, a di lợi đô bà tỳ, a di lợi đa, tất đam bà tỳ, a di lợi đa tỳ ca lan đế, a di lợi đa, tỳ ca lan đa, già di nị, già già na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha (南無阿彌多婆夜、哆他伽哆夜、哆地夜哆、阿彌利都婆毗、阿彌利哆、悉眈婆毗、阿彌利哆毗迦蘭諦、阿彌利哆、毗迦蘭哆、伽彌膩、伽伽那、枳多迦棣、娑婆訶)”. Căn cứ vào bộ Trung Hoa Phật Giáo Bách Khoa Toàn Thư (中華佛敎百科全書, bản điện tử) cũng như Hán Phạn-Phạn Hán Đà La Ni Dụng Ngữ Dụng Cú Từ Điển (漢梵、梵漢陀羅尼用語用句辭典, Nhà Xuất Bản Hoa Vũ [華宇出版社], Đài Loan, 1985) của tác giả người Đức là Robert Heineman, Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú được chuyển sang tiếng Sanskrit như sau: “namo amitabhaya, tathagataya, tad yatha, amrtod bhave, amrta siddhambhave, amrta vikrmte, amrta vikrmta gamine, gagana kirti kare, svaha”; và được dịch là: “Con xin quy mạng đức Phật Vô Lượng Quang, đấng Như Lai, liền thuyết chú rằng đấng chủ tể Cam Lồ, người thành tựu Cam Lồ, người truyền rưới Cam Lồ, người rưới khắp Cam Lồ, người tuyên dương (Cam Lồ) khắp hư không, thành tựu viên mãn”. Như trong Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bổn Đắc Sanh Tịnh Độ Thần Chú, đức Phật dạy rằng nếu có người thiện nam và thiện nữ trì tụng thần chú này thì ngày đêm thường được đức Phật A Di Đà trú trên đỉnh đầu của vị ấy để ủng hộ, không khiến cho các điều oan gia xảy ra, đời hiện tại được sống an ổn, và khi lâm chung theo đó mà được vãng sanh về quốc độ của Ngài. Vì vậy, câu thần chú này thường được tụng chung với Thập Chú trong thời công phu khuya của Thiền môn và được dùng trong các buổi lễ cầu siêu.
(圓仁, Ennin, 794-864): vị tổ của Phái Sơn Môn (山門派) thuộc Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, người vùng Hạ Dã (下野, Shimotsuke, thuộc Tochigi-ken [栃木縣]), tục danh là Nhâm Sanh (壬生). Lúc lên 9 tuổi, ông theo học với Quảng Trí (廣智, Kōchi), nhưng sau xuất gia với Tối Trừng. Sau khi thọ giới lúc 23 tuổi, ông khép mình ẩn tu trong núi suốt 12 năm trường, đến năm 35 tuổi mới đến giảng thuyết về Pháp Hoa ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), rồi tuyên dương diệu nghĩa của kinh này ở Tứ Thiên Vương Tự (四天王寺, Shitennō-ji), và tiến hành bố giáo ở địa phương phía bắc. Sau đó, ông lại trở về núi, ẩn cư ở vùng Hoành Xuyên (横川, Yokogawa) mà tu luyện trong vòng 3 năm. Vào lúc 42 tuổi, ông nhận được chiếu chỉ sang nhà Đường cầu pháp, nhưng phải lưu lại Thái Tể Phủ 2 năm; mãi cho đến năm 838 ông mới có thể rời Nhật, sang vùng Dương Châu (楊州, thuộc Tỉnh Giang Tô ngày nay) của Trung Quốc được. Trong thời gian trú tại Khai Nguyên Tự (開元寺), ông có học Tất Đàm với Tông Duệ (宗叡) và Mật Giáo với Toàn Nhã (全雅). Vì không có được sự hứa khả cho nhập quốc, nên năm sau ông dự định trở về nước song không được, vì thế ông phải phiêu lãng đến Pháp Hoa Viện (法華院) ở Huyện Văn Đăng (文登), thuộc vùng Đăng Châu (登州). Sau ông được Tướng Quân Trương Vịnh (張詠) giúp cho xin được điệp trạng nhập quốc, và cuối cùng vào năm 840 ông mới bắt đầu đi đến Ngũ Đài Sơn. Giữa đường ông gặp Tiêu Khánh Trung (蕭慶中) truyền cho yếu chỉ của Thiền, rồi Chí Viễn (志遠) và Huyền Giám (玄鑑) truyềncho diệu chỉ của Chỉ Quán; kế đến ông đến tham bái linh địa của Văn Thù và được truyền thọ hành pháp của Niệm Phật TamMuội. Sau ông đến Trường An, học được Kim Cang Giới ở Nguyên Chính (元政) của Đại Hưng Thiện Tự (大興善寺), Thai Tạng Nghi Quỹ ở Pháp Toàn (法全) của Huyền Pháp Tự (玄法寺), Tất Đàm ở Bảo Nguyệt Tam Tạng (寳月三藏), và Thiên Thai Diệu Nghĩa ở Tông Dĩnh (宗穎) của Lễ Tuyền Tự (醴泉寺). Sau 10 trường lưu học và cầu pháp ở Trung Quốc, năm 847 ông trở về nước. Bộ Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Ký (入唐求法巡禮行記) gồm 4 quyển của ông, đã ghi lại tất cả hành trạng và những kiến văn của ông trong suốt thời gian 10 năm này. Ông đã mang về nước một số kinh luận sớ gồm 589 bộ và 802 quyển. Năm sau, ông trở về Tỷ Duệ Sơn, nhậm chức Truyền Đăng Đại Pháp Sư và khai sáng nên Pháp Hoa Tổng Trì Viện (法華總持院), rồi đến năm 854 thì làm Tọa Chủ của Diên Lịch Tự. Đây là chức Tọa Chủ đầu tiên được công xưng. đệ tử của ông có những bậc anh tú tài ba như An Huệ (安慧, Anne), Huệ Lượng (慧亮, Eryō), Lân Chiêu (憐昭, Renshō), Tương Ưng (相應, Sōō), Biến Chiêu (遍昭, Henjō), An Nhiên (安然, Annen), v.v. Các trước tác của ông để lại cho hậu thế có Kim Cang Đảnh Kinh Sớ (金剛頂經疏) 7 quyển, Tô Tất Địa Kinh Sớ (蘇悉地經疏) 7 quyển, Hiển Dương Đại Giới Luận (顯揚大戒論) 8 quyển.
(圓珍, Enchin, 815-891): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu là Trí Chứng Đại Sư (智証大師), xuất thân vùng Tán Khi (讚岐, Sanuki, thuộc Kagawa-ken [香川縣] ngày nay), tục danh là Hòa Khí (和氣), mẹ là Tá Bá (佐伯), đồng hàng với cháu Không Hải. Năm 15 tuổi, ông được người chú Nhân Đức (仁德) dẫn đến đầu sư với Nghĩa Chơn (義眞, Gishin), đến năm 20 tuổi thọ giới rồi sau đó ẩn tu trong núi suốt 12 năm, và đến năm 32 tuổi mới ra lãnh chúng. Vì có chí sang nhà Đường cầu pháp, nên năm 853 ông sang Trung Quốc, đến Khai Nguyên Tự (開元寺) ở Huyện Liên Giang (連江縣), thuộc Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến ngày nay), học Tất Đàm ở Bát Nhã Hằng Duy (般若恒罹) và Luật Sớ ở Tồn Thức (存式). Sau khi đến Khai Nguyên Tự ở vùng Ôn Châu (溫州, thuộc Tỉnh Triết Giang ngày nay), ông được Tông Bổn (宗本) trao cho các bản sớ Câu Xá Luận. Tiếp theo ông đến Đài Châu (台州, thuộcTỉnh Triết Giang ngày nay), thọ nhận một số văn bản chương sớ của Duy Ma Kinh, Nhân Minh Luận từ Tri Kiến (知建). Sau đó, ông lại đến Quốc Thanh Tự (國清寺) ở trên Ngũ Đài Sơn và gặp được Vật Đắc (物得), Viên Tải (圓載). Kế đến, ông được Pháp Toàn (法全) của Thanh Long Tự (青龍寺) trao truyền Quán Đảnh của Kim Thai Lưỡng Bộ, và thọ nhận đại pháp của Tất Đàm Địa cũng như Tam Muội Da Giới. Ông cũng có học Mật Giáo với Trí Huệ Luân Tam Tạng (智慧輪三藏). Trong khoảng thời gian 7 tháng lưu lại tại Trường An, ông đã nhận được một số rất nhiều pháp cụ, sớ chương, và tham bái các ngôi chùa nổi tiếng nơi đây. Chính ông đã cúng tiền xây dựng phục hưng Quốc Thanh Tự, nên được gọi là Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Tự Nhật Bản Quốc Đại Đức Tăng Viện (天台山國清寺日本國大德僧院).Sau 6 năm lưu học cầu pháp, ông trở về nước, mang theo một số lượng lớn kinh sớ của Thiên Thai, Chơn Ngôn, Câu Xá, Nhân Minh, Tất Đàm, gồm khoảng hơn 440 bộ và 1000 quyển. Năm 859, thể theo lời thỉnh cầu của Đại Hữu (大友), ông chuyển đến ở tại Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) thuộc vùng Tam Tỉnh (三井, Mii), sau đó ông tạo nơi đây thành Thiên Thai Biệt Viện, và đến năm 868 thì được cử làm Tọa Chủ chùa này thay thế An Huệ (安慧, Anne). Môn hạ của ông có Duy Thủ (惟首, Yuishū), Du Hiến (猷憲, Yuken), Tăng Mạng (増命, Zōmyō), Tôn Ý (尊意, Soni), v.v. Trước tác của ông có Đại Nhật Kinh Chỉ Quy (大日經指歸) 1 quyển, Giảng Diễn Pháp Hoa Nghi (講演法華儀) 2 quyển, Thọ Quyết Tập (授決集) 2 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập