Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không có khả năng giúp đỡ tất cả mọi người, nhưng mỗi người trong chúng ta đều có thể giúp đỡ một ai đó. (We can't help everyone, but everyone can help someone.)Ronald Reagan
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Tôn »»

(s: Amitāyus, Amitābha; t: Dpag-tu-med, Dpag-yas, j: Amidabutsu, 阿彌陀佛): tên gọi của một vị Phật rất quan trọng trong Phật Giáo Đại Thừa, giáo chủ của thế giới Tây Phương Cực Lạc, còn gọi là A Di Đa Phật (阿彌多佛), A Nhi Đa Phật (阿弭跢佛), thường được gọi là A Di Đà Phật hay A Di Đà Như Lai, gọi tắt là Di Đà. Nguyên bản Sanskrit có hai chữ: Amitāyus có âm dịch là A Di Đa Sưu (阿彌多廋), nghĩa là người có thọ mạng vô hạn hay vô lượng thọ; còn Amitābha có âm dịch là A Di Đa Bà (阿彌多婆), là người có ánh sáng vô hạn hay vô lượng quang; nhưng cả hai đều được phiên âm là A Di Đà. Trên thực tế, nguyên ngữ Amitābha được dùng khá phổ biến. Về xuất xứ của danh hiệu A Di Đà Phật này, trong A Di Đà Kinh (阿彌陀經) do Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch, có đề cập đến. Vị Phật này có ánh sáng vô lượng, tuổi thọ vô lượng, cho nên được gọi là A Di Đà Phật. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào bản tiếng Sanskrit A Di Đà Kinh (阿彌陀經) và Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (稱讚淨土佛攝受經), vị Phật này có tuổi thọ vô số, ánh sáng vô biên, cho nên được gọi là Vô Lượng Thọ Phật và Vô Lượng Quang Phật. Riêng trong Bình Đẳng Giác Kinh (平等覺經) có bài kệ của A Di Đà Phật, còn trong Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, v.v., có danh hiệu khác là Vô Lượng Thanh Tịnh Phật hiện trú tại thế giới thanh tịnh tên Cực Lạc. Kinh điển lấy tín ngưỡng A Di Đà Phật làm chủ đề có 3 bộ kinh của Tịnh Độ là Vô Lượng Thọ Kinh (s: Sukhāvatīvyūha-sūtra, 無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經) và A Di Đà Kinh (阿彌陀經); cho nên trên cơ sở của ba kinh này Tịnh Độ Giáo được thành lập. Theo Vô Lượng Thọ Kinh, quyển thượng, trong đời quá khứ xa xưa thời đức Thế Tự Tại Vương Phật (世自在王佛) trụ thế, có vị quốc vương phát tâm vô thượng, xả bỏ vương vị xuất gia, tên là Bồ Tát Pháp Tạng (s: Dharmākara, 法藏, hay Tỳ Kheo Pháp Tạng). Vị này theo tu tập với Thế Tự Tại Vương Phật, phát 48 lời thệ nguyện để cứu độ chúng sanh và sau một thời gian tu hành lâu xa, ngài thành tựu bản nguyện của mình và được thành Phật. Vị Phật này chính là A Di Đà Phật. Cho đến hiện tại ngài vẫn đang thuyết pháp tại thế giới gọi là Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂), cách đây khoảng 10 vạn ức Phật độ về phía Tây. Ngài thường tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sanh về cõi Tây Phương Tịnh Độ, cho nên được gọi là Tiếp Dẫn Phật. Thông thường tượng A Di Đà Tam Tôn có hai vị Bồ Tát Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音) và Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 勢至) đứng hầu hai bên, cho nên hai vị này cùng với Phật A Di Đà được gọi là Tây Phương Tam Thánh. Theo Bát Nhã Tam Muội Kinh (般若三昧經) quyển thượng cho biết rằng đức Phật A Di Đà có 32 tướng tốt, ánh sáng chiếu tỏa khắp, hùng tráng không gì sánh bằng. Đặc biệt, theo lời dạy trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh cho thấy rằng thân của đức Phật Vô Lượng Thọ có trăm ngàn sắc màu vàng rực như vàng Diêm Phù Đàn (s: jambūnadasuvarṇa, 閻浮檀) của Trời Dạ Ma (s, p: Yāma, 夜摩), cao 60 vạn ức na do tha (s: nayuta, niyuta, 那由他) Hằng hà sa số do tuần (s, p: yojana, 由旬). Giữa hai lông mi của ngài có lông mi trắng uyển chuyển xoay về bên phải, tướng lớn nhỏ của lông mi có độ cao gấp 5 lần núi Tu Di (s, p: Sumeru, 須彌山). Mắt của ngài trong trắng, rõ ràng, có bề ngang rộng gấp 4 lần nước biển lớn. Thân ngài có 84.000 tướng tốt, trong mỗi mỗi tướng như vậy có 84.000 ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp các chúng sanh niệm Phật. Tại Tây Tạng, Phật A Di Đà được xem như hai vị Phật Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ; nếu ai mong cầu có trí tuệ thì quy y Phật Vô Lượng Quang, ai mong cầu tuổi thọ và phước lạc thì quy y Phật Vô Lượng Thọ. Trong Mật Giáo, Phật A Di Đà được xem như là diệu quang sát trí của Đại Nhật Như Lai (s: Vairocana, 大日如來), được gọi là Cam Lồ Vương (s: Amṛta-rāja, 甘露王). Trong Kim Cang Giới Mạn Trà La (金剛界曼茶羅), ngài được gọi là A Di Đà Như Lai có thân thọ dụng trí tuệ, nằm ở trung ương vòng nguyệt luân phía Tây. Thân của ngài có sắc vàng ròng, tay bắt ấn Tam Ma Địa (s, p: samādhi, 三摩地), chủng tử là hrīḥ, mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cang, và hình Tam Muội Da là hoa sen. Trong Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼茶羅), ngài được gọi là Vô Lượng Thọ Như Lai, nằm ở phía Tây, trong đài có 8 cánh sen. Thân ngài có sắc màu vàng trắng hay vàng ròng, mắt nhắm lại, thân nhẹ như tà áo, ngồi xếp bằng trên tòa sen báu, tay bắt ấn nhập định, chủng tử là saṃ, mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cang, và hình Tam Muội Da là hoa sen vừa mới hé nở. Tại An Lạc Lâm (安樂林), Bạch Vân Am (白雲菴), thuộc Từ Khê (慈谿), Ninh Ba (寧波), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối như sau: “Nhất cú Di Đà hữu thể hữu tông hữu dụng, tam thiên thế giới tức không tức giả tức trung (一句彌陀有體有宗有用、三千世界卽空卽假卽中, một câu Di Đà, có thể có tông có dụng, ba ngàn thế giới là không là giả là trung).” Hay tại Phổ Đà Tự (普陀寺) ở Hạ Môn (廈門), Tỉnh Phúc Kiến (福建省南) cũng có câu đối tán thán công hạnh của đức Phật A Di Đà như: “Di Đà thủ tiếp Liên Trì khách, chúng sanh tâm quy Cực Lạc bang (彌陀手接蓮池客、眾生心歸極樂邦, Di Đà tay rước Liên Trì khách, chúng sanh tâm về Cực Lạc bang).” Đào Duy Từ (1572-1634) có câu thơ rằng: “Những khi khói tỏ yên hà, mảng âu mây cuốn Di Đà Tây Thiên.” Hay trong truyện Phan Trần cũng có câu: “Tam Quy Ngũ Giới chứng tình, xem câu nhân quả niệm kinh Di Đà.”
(鞍作止利・鞍作鳥, Kuratsukuri Tori, ?-?): vị thầy điêu khắc tượng Phật thời đại Phi Điểu, vị tổ nghề điêu khắc tượng Phật của Nhật, cháu của Tư Mã Đạt Đẳng (司馬達等, Shiba Datto) từ Trung Quốc sang. Một số kiệt tác do vị này làm ra như tượng Phật Thích Ca của Phi Điểu Tự (飛鳥寺, Asuka-ji) và tượng Thích Ca Tam Tôn ở Kim Đường của Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
(專修寺, Senjū-ji): ngôi chùa hiện tọa lạc tại số 1482 Takada (高田), Ninomiya-machi (二宮町), Haga-gun (芳賀郡), Tochigi-ken (栃木縣); hiệu là Cao Điền Sơn (高田山), thuộc phái Cao Điền Sơn của Chơn Tông. Tượng thờ chính là Nhất Quang Tam Tôn Phật (一光三尊佛, tức A Di Đà Tam Tôn theo dạng thức của Thiện Quang Tự, gồm A Di Đà Như Lai, Quan Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát). Ngôi chùa bản sơn trung tâm cùng tên hiện tọa lạc tại số 2819 Isshinden-chō (一身田町), Tsu-shi (津市), Mie-ken (三重縣). Vì vậy, vị trú trì của chùa này thường kiêm nhiệm luôn cả ngôi chùa ở Mie-ken. Nguồn gốc tên chùa vốn phát xuất từ đặc trưng của các Tông phái thuộc hệ Tịnh Độ là “Chuyên Tu Niệm Phật (專修念佛)”. Nhờ sự hỗ trợ đắc lực của vị Thành Chủ của Thành Chơn Cương (眞岡城, Mooka-jō) là Đại Nội Quốc Thời (大內國時, Ōuchi Kunitoki), ngôi chùa này do Thân Loan kiến lập vào năm 1226 (Gia Lộc [嘉祿] 2), làm đạo tràng căn bản để truyền bá Chơn Tông khắp vùng Quan Đông (關東, Kantō). Năm sau, triều đình sắc phong cho chùa tên Chuyên Tu A Di Đà Tự (專修阿彌陀寺). Từ đó trở đi, ngôi chùa trở thành nơi hoạt động trung tâm của Chơn Tông ở vùng Quan Đông và rất phồn vinh, rồi dòng pháp của vị Tổ đời thứ 2 của chùa là Chơn Phật (眞佛, Shinbutsu) và thứ 3 là Hiển Trí (顯智, Kenchi) đã hình thành nên một dòng phái khác, lấy tên là dòng Tịnh Độ Hạ Dã (淨土下野). Đến năm 1465 (Khoan Chánh [寛正] 6), dưới thời vị Tổ thứ 10 là Chơn Tuệ Thượng Nhân (眞慧上人) đất chùa được dời đến vùng Mie-ken (三重縣), rồi sau đó chùa cũng hưng long. Tượng Bổn Tôn A Di Đà Như Lai tương truyền do Thân Loan thỉnh từ ngôi chùa Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji) ở vùng Tín Nùng (信濃, Shinano). Hiện chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật vô giá như Tây Phương Chỉ Quy Sao (西方指南抄), 6 quyển, thủ bút của Thân Loan; tam thiếp hòa tán (三帖和讃), 3 quyển, thủ bút của Thân Loan; Ngự ảnh Đường, Như Lai Đường, tượng A Di Đà Như Lai đứng bằng gỗ, v.v.
(s: mahāvīra, 大雄): ý chỉ bậc anh hùng vĩ đại, là đức hiệu của đức Phật, vì Ngài là đấng anh hùng, có đủ năng lực trí tuệ lớn, có thể hàng phục ma chướng, chiến thắng tự thân mình. Vì vậy, tại Chánh Điện tôn thờ đức Phật được gọi là “Đại Hùng Bảo Điện (大雄寶殿, ngôi điện báu của đấng Đại Hùng).” Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262), Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất (從地踊出品) thứ 15, có câu: “Thiện tai ! Thiện tai ! Đại hùng Thế Tôn ! (善哉、善哉、大雄世尊, Lành thay ! Lành thay ! Đức Thế Tôn đại hùng !).” Hay trong Phụ Tử Hợp Tập Kinh (父子合集經, Taishō Vol. 11, No. 320) quyển 13, Phẩm Tịnh Cư Thiên Thuyết Kệ Tán Phật (淨居天子說偈讚佛品) thứ 24, có đoạn: “Đại hùng mãnh Thế Tôn, xả sanh tử trọng đảm, cần tu vô thối khuất, tốc chí ư Bồ Đề (大雄猛世尊、捨生死重擔、勤修無退屈、速至於菩提, Thế Tôn đại hùng mãnh, bỏ sống chết gánh nặng, siêng tu không thối chuyển, mau đến nơi Bồ Đề).” Hoặc như trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 7, phần Trú Kim Lăng Thiên Giới Thiền Tự Ngữ Lục (住金陵天界禪寺語錄), lại có câu: “Đại Hùng Điện niêm hương, hoàng kim điện thượng Tam Tôn Phật, bạch ngọc quang trung nhất cá tăng (大雄殿拈香、黃金殿上三尊佛、白玉光中一箇僧, nơi Điện Đại Hùng niêm hương, vàng ròng trên điện Ba Đấng Phật, ngọc trắng hào quang một lão tăng).”
(大慈寺, Daiji-ji): ngôi chùa con trực thuộc vào ngôi Đại Bản Sơn Vĩnh Bình Tự của Tào Động Tông, biệt xưng là Đại Từ Thiền Tự (大慈禪寺); hiệu là Đại Lương Sơn (大梁山); hiện tọa lạc tại Noda-chō (野田町), Kumamoto-shi (熊本市), Kumamoto-ken (熊本縣). Tượng thờ chính là Thích Ca Tam Tôn. Vị Tổ khai sơn chùa là Thiền sư Hàn Nghiêm Nghĩa Duẫn (寒嚴義尹). Tương truyền Thiền sư là Hoàng Tử của Hậu Điểu Vũ Thiên Hoàng (後鳥羽天皇, Gotoba Tennō) hay Thuận Đức Thiên Hoàng (順德天皇, Juntoku Tennō). Ông đã từng đến tham yết Thiền sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen), rồi sau sang nhà Tống cầu pháp tu hành, và được gọi là Pháp Hoàng Trưởng Lão (法皇長老). Vào năm 1278 (Hoằng An [弘安] nguyên niên), vị lãnh chúa vùng đất này là Tả Vệ Môn Tá Thái Minh (左衛門佐泰明) quy y theo Thiền sư, và xây dựng nên chùa này. Quy Sơn Thượng Hoàng (龜山上皇) rất mến mộ đức độ của vị Tổ khai sơn, mới ban tặng cho Tử Y, rồi liệt chùa này vào hạng chùa quan, chỉnh trang già lam; cho nên nhờ vậy chùa rất hưng thạnh. Chùa cũng đã gặp bao lần bị binh hỏa, rồi được Hòa Thượng Động Xuân Tông (洞春宗) tái kiến lại. Chùa được đời đời mấy vị lãnh chúa Gia Đằng Thanh Chánh (加藤清正, Katō Kiyomasa), Tế Xuyên Trung Lợi (細川忠利, Hosokawa Tadatoshi) quy y theo, đến khoảng niên hiệu Nguyên Lộc (元祿, 1688-1704) thì chùa trở thành Chùa Tăng Lục của vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū).
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(s: Bhaiṣajyaguru, 藥師): nói rõ là Dược Sư Lưu Ly Quang (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabha, 藥師瑠璃光), Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (藥師琉璃光王佛), Dược Sư Như Lai (藥師如來), Đại Y Vương Phật (大醫王佛), Y Vương Thiện Thệ (醫王善誓), Thập Nhị Nguyện Vương (十二願王), âm dịch là Bệ Sát Xã Lũ Lô (鞞殺社窶嚕). Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh (s: Bhaiṣajyaguruvaiḍūryaprabhāsapūryapraṇidhāna, 藥師瑠璃光如來本願功德經, Taishō No. 450), ngoài 10 hằng hà sa Phật độ có thế giới gọi là Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃) và giáo chủ của thế giới đó là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Thế giới này được gọi là cõi Tịnh Độ ở phương Đông, cũng trang nghiêm như cõi nước Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂). Trong thời gian hành Bồ Tát đạo, vị Phật này có phát 12 lời nguyện lớn và nhờ lời nguyện này mà hiện tại ngài thành Phật ở thế giới Tịnh Lưu Ly, có hai vị Bồ Tát Nhật Quang (s: Sūryaprabha, 日光) và Nguyệt Quang (s: Candraprabha, 月光) thường xuyên hộ trì hai bên. Thệ nguyện của đức Phật này không thể nghĩ bàn và sự linh nghiệm của Ngài cũng rất rộng lớn. Nếu có người thân mạng bệnh nặng, hiện tướng sắp chết, bà con quyến thuộc của người ấy tận tâm, chí thành cúng dường, lễ bái Phật Dược Sư, đọc tụng Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức Kinh 49 biến, thắp 49 ngọn đèn, tạo tràng phan 5 sắc màu của 49 cõi trời, thì người sắp lâm chung ấy sẽ được sống lại và kéo dài sinh mạng thêm. Cho nên, tín ngưỡng Phật Dược Sư đã thịnh hành từ xa xưa. Về hình tượng của Ngài, theo Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō No. 926) cho biết rằng tay trái Ngài cầm dược khí (còn gọi là Vô Giá Châu [無價珠]), tay phải kết Tam Giới Ấn (三界印), mặc áo Ca Sa (s: kaṣāya, kāṣāya, p: kāsāya, kāsāva, 袈裟), ngồi kiết già trên đài hoa sen và dưới đài có 12 vị thần tướng. Các vị thần tướng này thệ nguyện hộ trì pháp môn Dược Sư, mỗi vị thống lãnh 7.000 quyến thuộc Dược Xoa (藥叉), tại các nơi hộ trì cho chúng sanh nào thọ trì danh hiệu Phật Dược Sư. Bên cạnh đó, hình tượng được lưu truyền phổ biến nhất về đức Phật này là hình có mái tóc xoăn hình trôn ốc, tay trái cầm bình thuốc, tay phải bắt Thí Vô Úy Ấn (施無畏印, hay Dữ Nguyện Ấn [與願印]); có 2 Bồ Tát Nhật Quang Biến Chiếu (日光遍照) và Nguyệt Quang Biến Chiếu (月光遍照) hầu hai bên, được gọi là Dược Sư Tam Tôn (藥師三尊). Hai vị Bồ Tát này là thượng thủ trong vô lượng chúng ở cõi Tịnh Độ của Phật Dược Sư. Ngoài ra còn có 8 Bồ Tát khác hầu cận bên Ngài như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 勢至), Bảo Đàn Hoa (寶壇華), Vô Tận Ý (無盡意), Dược Vương (s: Bhaiṣajyarāja, 藥王), Dược Thượng (s: Bhaiṣajyasamudgata, 藥上), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Theo Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh (藥師琉璃光七佛本願功德經, Taishō No. 451) do Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) nhà Đường dịch có nêu tên 7 vị Phật Dược Sư, gồm: Thiện Xưng Danh Cát Tường Vương Như Lai (善稱名吉祥王如來), Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai (寶月智嚴光音自在王如來), Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Như Lai (金色寶光妙行成就如來), Vô Ưu Tối Thắng Cát Tường Như Lai (無憂最勝吉祥如來), Pháp Hải Lôi Âm Như Lai (法海雷音如來), Pháp Hải Tuệ Du Hý Thần Thông Như Lai (法海慧遊戲神通如來) và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (藥師琉璃光如來). Trong số đó, 6 vị đầu là phân thân của Dược Sư Như Lai. Đức Phật này cùng với Thích Ca Mâu Ni Như Lai (釋迦牟尼佛), A Di Đà Phật (阿彌陀佛) được gọi là Hoành Tam Thế Phật (橫三世佛), hay Tam Bảo Phật (三寶佛). Trong Phật Giáo, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật ở phương Đông và A Di Đà Phật ở phương Tây được xem như là hai đấng tối cao giải quyết vấn đề sanh và tử của chúng sanh.
(藥師寺, Yakushi-ji): ngôi đại bản sơn của Pháp Tướng Tông, hiện tọa lạc tại Nishinokyō-chō (西ノ京町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣), một trong 7 ngôi đại tự của Phật Giáo Nam Đô. Vào năm thứ 9 (680) đời Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), nhà vua phát nguyện kiến lập chùa để cầu nguyện cho Hoàng Hậu được lành bệnh. Sau khi Thiên Hoàng qua đời, Trì Thống Thiên Hoàng (持統天皇, Jitō Tennō) tiếp tục sự nghiệp xây dựng chùa và đến năm 698 mới hoàn thành. Cùng với sự di chuyển của kinh đô về Bình Thành (平城, Heizei), tương truyền chùa cũng được dời vào năm thứ 2 (718) niên hiệu Dưỡng Lão (養老), và đến năm thứ 2 (730) niên hiệu Thiên Bình (天平) thì Đông Tháp được dựng lên. Vào năm đầu (749) niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo (天平勝寳), ruộng, lúa và vật phẩm bắt đầu được dâng cúng cho chùa. Chùa được sự bảo hộ của quốc gia với tư cách là Quan Tự; Tối Thắng Hội (最勝會) khởi đầu vào năm thứ 7 (830) niên hiệu Thiên Trường (天長) là một trong 3 lễ hội quan trọng của chùa. Sự phối trí trong già lam có 2 ngôi tháp phía Đông và Tây nằm phía trước Kim Đường theo dạng thức của Dược Sư Tự. Sau nhiều trận hỏa tai như lần vào năm đầu (1528) niên hiệu Hưởng Lộc (享祿), v.v., kiến trúc lúc mới xây dựng chùa chỉ còn lại Đông Tháp mà thôi và nó được xem như là tài sản văn hóa quan trọng. Tượng Dược Sư Tam Tôn (藥師三尊) được an trí tại Kim Đường (金堂) là bức tượng được đúc bằng đồng vàng theo dạng thức thời Thịnh Đường của Trung Quốc, là tác phẩm trứ danh trong lịch sử điêu khắc thời cổ đại của Nhật Bản. Tượng Thánh Quan Âm (聖觀音) ở Đông Viện Đường (東院堂) mang cả hai yếu tố thời Bạch Phụng (白鳳, Hakuhō) và Trung Quốc, là bức tượng nổi tiếng được đánh giá cổ hơn cả bức Dược Sư Tam Tôn. Ngoài ra, tranh vẽ Cát Tường Thiên (吉祥天) là tượng thiên nữ, được vẽ trên vải đay, thể hiện tư thế của người phụ nữ thời nhà Đường Trung Quốc. Gần đây, qua lần phục hưng Kim Đường, Tây Tháp và Trung Môn, chùa đã được chỉnh đốn cảnh quan khá nhiều. Những câu chuyện truyền khẩu về khởi nguyên của chùa cũng như sự linh nghiệm của tượng thờ chính được tìm thấy rải rác trong các thư tịch cho đến cuối thời Trung Đại. Đặc biệt, điều đáng lưu ý ở đây là sự hiện hữu của Hành Cơ (行基, Gyōki)—vị cao tăng của Dược Sư Tự. Ông đã hoạt động tích cực và tạo ra rất nhiều câu chuyện cũng như truyền thuyết về ông, từ đó gây ảnh hưởng rất lớn cho hậu thế. Bên cạnh đó, Cảnh Giới (景戒, Keikai) cũng có soạn cuốn Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記)—tập thuyết thoại đầu tiên của Nhật Bản và được xem như là tiếng vang của nền văn học thuyết thoại Phật Giáo. Hiện tồn có nhiều loại thư tịch liên quan đến nguồn gốc của chùa, nhưng bản tối cổ là bản năm thứ 4 (1015) niên hiệu Trường Hòa (長和).
(熊羆): đồng nghĩa với hùng hổ (熊虎), nghĩa là gấu và cọp, tỷ dụ một người dũng mãnh, dũng sĩ thiện chiến. Vì vậy thường có từ “hùng bi chi sĩ (熊羆之士, người có sức mạnh oai dũng như con gấu, cọp).” Như trong Thư Kinh (書經), Khang Vương Chi Cáo (康王之誥) có câu: “Tắc diệc hữu hùng bi chi sĩ, bất nhị tâm chi thần, bảo nghệ vương gia (則亦有熊羆之士、不二心之臣、保乂王家, ắt sẽ có dũng sĩ hùng mạnh, trung thần một lòng tận lực, bảo vệ vương gia).” Trong Thi Kinh (詩經), phần Tiểu Nhã (小雅), Tư Can (斯干) có câu: “Đại nhân chiêm chi, duy hùng duy bi, nam tử chi tường, duy hủy duy xà, nữ tử chi tường (大人占之、維熊維羆、男子之祥、維虺維蛇、女子之祥, người lớn đoán rằng, là gấu là cọp, điềm lành con trai; là hổ mang là rắn, điềm lành con gái).” Cho nên nằm mơ thấy con gấu hay cọp, những con vật tượng trưng cho sức mạnh hùng dũng, đó là điềm lành báo mộng sanh con trai. Như trong Tam Quốc Chí (三國志) quyển 24 có câu: “Bệ Hạ thông đạt, cùng lý tận tánh, nhi khoảnh Hoàng Tử liên đa yểu thệ, hùng bi chi tường vị cảm ứng (陛下聰達、窮理盡性、而頃皇子連多夭折、熊羆之祥又未感應, Bệ Hạ thông đạt, xét cùng lý lẽ, nhưng trong chốc lát mà mấy Hoàng Tử liên tục chết yểu, điềm lành gấu cọp vẫn chưa cảm ứng).” Hay trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng quyển 2, phần Bảo Thai, có câu: “Hùng bi ứng mộng thả cư do dự chi trung, xà hủy trình tường diệc tại cô nghi chi vức, duy kí bảo an chi nhị tự, cảm vong trí kính vu Tam Tôn (熊羆應夢且居猶豫之中、蛇虺呈祥亦在狐疑之域、惟冀保安之二字、敢忘致敬于三尊, gấu cọp ứng mộng sao còn do dự làm chi, rắn mang điềm tốt liệu mang nghi ngờ lưỡng lự, chỉ mong bình an trong hai chữ, dám quên kính ngưỡng đấng Tam Tôn).” Hoặc trong bài Diệm Khẩu Triệu Thỉnh Văn (焰口召請文) tương truyền do Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống trước tác cũng có câu nói về giấc mộng hùng bi: “Hoài thai thập nguyệt, tọa thảo tam triêu, sơ hân loan phụng hòa minh, thứ vọng hùng bi hiệp mộng (懷胎十月、坐草三朝、初欣鸞鳳和鳴、次望熊羆叶夢, mang thai mười tháng, nằm cỏ ba hôm, mới mừng loan phụng cùng vui, kế trông gấu beo báo mộng).”
(興福寺奏狀, Kōfukujisōjō): bản tấu trạng do chúng môn đồ của phía Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) dâng lên triều đình thỉnh cầu cấm chế giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật (專修念佛). Người viết bản thảo là Giải Thoát Phòng Trinh Khánh (貞慶, Jōkei). Bản trạng văn ghi tháng 10 năm 1205 (Nguyên Cửu [元久] nhị niên), nêu lên 9 điều sai trái và phê phán giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật của Pháp Nhiên (法然, Hōnen). Tám tông phái lớn đương thời như Pháp Tướng, Thiên Thai, v.v., tất nhiên đã được sắc hứa của triều đình nên công nhiên hoạt động, riêng Pháp Nhiên thì lập ra một tông phái mới mà vẫn chưa có sự hứa khả (sai lầm thứ nhất), vẽ bức Nhiếp Thủ Bất Xả Mạn Trà La (攝取不捨曼荼羅) với tư tưởng cho rằng ánh quang minh của đức Di Đà không chiếu soi đến các học sinh của Hiển Tông cũng như hành giả của Chơn Ngôn; thể hiện sự khinh miệt trắng trợn đối với những nhà tu hành của Thánh Đạo Môn (sai lầm thứ hai). Phái này chỉ biết trọng thị Phật Di Đà, xem thường đấng giáo chủ Thích Ca (sai lầm thứ ba); bỏ đi các việc làm thiện như đọc tụng kinh điển, kiến lập chùa tháp, v.v. (sai lầm thư tư); rồi không lễ lạy các đền thờ, tông miếu (sai lầm xem thường Ngũ Linh Thần [五靈神] thư năm); phủ nhận đạo đức của thế gian và thiện căn ngoài việc niệm Phật, do đó không công nhận các hạnh vãng sanh (sai lầm thứ sáu). Họ chỉ biết lấy pháp môn miệng niệm hồng danh mà bỏ qua việc niệm Phật theo hình thứ quán niệm cũng như tâm niệm (sai lầm về quan niệm niệm Phật thứ bảy); thậm chí còn khuyến khích phá giới như phạm nữ sắc, ăn thịt, v.v. (sai lầm làm tổn hại chúng đệ tử Thích Tôn thứ tám); làm phá tan nguyên tắc Vương Pháp Phật Pháp và dấy sinh loạn lạc (sai lầm làm cho quốc gia loạn lạc thứ chín). Bản tấu trạng này đã nêu lên 9 điều sai lầm nghiêm trọng (bằng Hán văn) của giáo đoàn niệm Phật, thỉnh cầu đình chỉ pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật, và xử phạt Pháp Nhiên cũng như chúng đệ tử ông. Khoảng 1, 2 năm sau đó, Pháp Nhiên cùng môn đệ bị lưu đày.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập