Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tầm Thiền »»

(金相): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho hình thức hoàn mỹ. Như trong bài Hà Nam Phủ Tham Quân Quách Quân Thần Đạo Bi Minh (河南府參軍郭君神道碑銘) của Nhan Chơn Khanh (顏眞卿, 709-785) nhà Đường có câu: “Gia truyền ngọc thọ, nhân vịnh kim tướng (家傳玉樹、人詠金相, nhà truyền cây ngọc, người vịnh tướng đẹp).” (2) Chỉ cho các tượng Phật, Bồ Tát dát vàng. Như trong bài thơ Tịnh Lạc Cung (淨樂宮) của Vương Thế Trinh (王世貞, 1526-1590) nhà Minh có câu: “Mạt pháp khai kim tướng, chơn vương đắc bảo phù (末法開金相、眞王得寳符, mạt pháp bày vàng tướng, vua hiền được báu bùa).” Trong Ngũ Phương Tiện Niệm Phật Môn (五方便念佛門, Taishō Vol. 47, No. 1962) có đoạn: “Niệm Phật chi thời đế quán Như Lai ngọc hào kim tướng, ngưng nhiên tịch tĩnh liễu lượng động triệt, danh Ngưng Tâm Thiền (念佛之時諦觀如來玉毫金相、凝然寂靜了亮洞徹,名凝心禪, khi niệm Phật, quán rõ tướng vàng lông ngọc của Như Lai, lắng đọng tĩnh lặng, sáng soi thấu triệt, đó gọi là Thiền Lắng Tâm).” Hay trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 23, phần Đàm Châu Báo Từ Khai Phước Tấn Anh Thiền Sư (潭州報慈開福進英禪師), lại có đoạn: “Kim triêu tứ nguyệt bát, ngã Phật giáng sanh thần, đầu đầu kim tướng hiện, xứ xứ pháp tràng tân, bất tẩy thế, bất tẩy trần, quán mộc Như Lai diệu sắc thân, thùy tín nhị thiên niên hậu sự, Ưu Đàm trùng trưởng nhất chi xuân (今朝四月八、我佛降生辰、頭頭金相現、處處法幢新、不洗體、不洗塵、灌沐如來妙色身、誰信二千年後事、優曇重長一枝春, sáng nay mồng tám tháng tư, ngày Phật ta giáng trần, đầu đầu tướng vàng hiện, chốn chốn cờ pháp tung, chẳng rửa thân, chẳng rửa bụi, tắm rửa Như Lai sắc mầu thân, ai tin hai ngàn năm sau nữa, Ưu Đàm lớn mạnh một cành xuân).”
(良源, Ryōgen, 912-985): vị tăng của Thiên ThaiTông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu Từ Huệ Đại Sư (慈慧大師), người đời thường gọi ông là Nguyên Tam Đại Sư (元三大師), Ngự Miếu Đại Sư (御廟大師), Giác Đại Sư (角大師), Đậu Đại Sư (豆大師), họ là Mộc Tân (木津), xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Năm lên 12 tuổi, ông theo học pháp với Lý Tiên (理仙), và sau khi thầy qua đời, ông đến thọ giới với Thiên Thai Tọa Chủ Tôn Ý (尊意, Soni), rồi theo học với Hỷ Khánh (喜慶, Kikei), Giác Huệ (覺惠, Kakue) và Vân Tình (雲晴, Unsei). Vào năm 937, tại Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), ông đã đối luận với Nghĩa Chiêu (義昭, Gishō) của Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) và hàng phục được vị này. Đến năm 963, tại Pháp Hoa Hội ở Thanh Lương Điện, ông lại luận phá được Pháp Tàng (法藏, Hōzō) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), nên thanh danh của ông vang khắp thiên hạ. Năm 964, ông được liệt vào hàng Nội Cúng Phụng (內供奉, hàng ngũ của 10 vị Thiền Sư), rồi năm sau thì làm Quyền Luật Sư, năm kế đến thì trở thành Thiên Thai Tọa Chủ. Trong thời gian làm Tọa Chủ được khoảng 20 năm, ông đã nỗ lực phục hưng Giảng Đường và giáo dưỡng đồ chúng. Chính ông đã định ra Nhị Thập Lục Điều Thức (二十六條式) để chỉnh đốn quy luật trongSơn Môn. Ông được sùng ngưỡng như là vị Tổ Sư thời Trung Hưng, và ngoài thế gian thì sùng bái như là hóa thân của Quan Âm, hay của Bất Động Minh Vương Bồ Tát. Môn hạ của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Nguyên Tín (源信, Genshin), Giác Vận (覺運, Kakuun), Tầm Thiền (尋禪, Jinzen), Giác Siêu (覺超, Kakuchō) và hơn 3000 người. Trước tác của ông để lại có Bách Ngũ Thập Tôn Khẩu Quyết (百五十尊口訣), Cửu Phẩm Vãng Sanh Nghĩa (九品徃生義), Danh Biệt Nghĩa Thông Tư Ký (名別義通私記), Thai Kim Niệm Tụng Hành Ký (胎金念誦行記).
(普庵印肅, 1115-1169), còn gọi là Phổ Am Thiền Sư (普庵[菴]禪師), Phổ Am Tổ Sư (普庵祖師); trong dân gian vẫn thường gọi là Phổ Án (普唵). Ngài là bậc cao tăng của Lâm Tế Tông, pháp từ của Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), sanh vào năm thứ 5 (1115) niên hiệu Chính Hòa (政和) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống; xuất thân Nghi Xuân (宜春), Viên Châu (袁州); họ là Dư (余), dung mạo rất kỳ khôi, thiên tánh mẫn tuệ. Khi hạ sanh ông, mẫu thân mộng thấy ánh sáng tỏa khắp bầu trời, hoa sen sanh trên lối đi. Lúc còn nhỏ, Phổ Am mộng thấy một vị dị tăng chỉ vào ngực ông mà bảo rằng: “Ngươi ngày kia sẽ tỉnh ngộ.” Tỉnh dậy, ông đem câu chuyện ấy kể cho mẹ nghe, người mẹ bèn vạch ngực ông ra xem thì quả nhiên có một điểm màu hồng như trái đào. Vào năm 1134 (Thiệu Hưng [紹興] 4), lúc 20 tuổi, ông xuất gia với Thiền Sư Thọ Long Hiền (壽隆賢); rồi đến năm 1141 (Thiệu Hưng 11) mới được xuống tóc và năm sau thì thọ giới ở Khai Nguyên Tự (開元寺), Viên Châu (袁州). Vào năm 1143 (Thiệu Hưng 13), ông đến dạo chơi Hồ Tương (湖湘), tham yết Thiền Sư Yết Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), được vị này khai thị cho nên tỉnh ngộ. Sau ông trở về Thọ Long Viện (壽隆院). Đến năm 1153 (Thiệu Hưng 23), năm lên 39 tuổi, ông được thỉnh làm Trú Trì Từ Hóa Tự (慈化寺) ở Nghi Xuân, Giang Tây (江西). Ông thường mặc áo vải thô sơ, lưng chưa hề chấm chiếu, chuyên tâm Thiền định, nhân một hôm đọc đến đoạn “đạt bổn tình vong, tri tâm thể hợp (達本情忘、知心體合, đạt gốc tình quên, biết tâm thể hợp)” trong Kinh Hoa Nghiêm thì hoát nhiên tỉnh ngộ. Vào năm 1169 (Càn Đạo [乾道] 5, đời vua Hiếu Tông [孝宗, tại vị 1162-1189] nhà Nam Tống), ông tắm rửa, viết bài kệ, ngồi xếp bằng viên tịch. Bộ Phổ Am Ấn Túc Thiền Sư Ngữ Lục (普菴印肅禪師語錄), 3 quyển, của ông hiện được thâu lục trong bộ Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh (卍新纂續藏經, Vol. 69, No. 1356). Do vì khi còn tại thế, có rất nhiều truyền thuyết linh nghiệm về ông, sau khi qua đời, Thiền Sư Phổ Am được mọi người tín ngưỡng, trở thành một vị thần thánh của Phật Giáo chuyên tiêu tai, giải ách. Như vào năm 1156 (Thiệu Hưng 26), một hôm nọ Thiền Sư mở pháp hội, mọi người đến tham dự rất đông; vì vậy quan phủ cho người đến điều tra xem thử hư thực thế nào, nhưng đột nhiên cuồng phong, mưa lớn, trên trời hiện ra một con rồng lớn, nên quan phủ không dám điều tra, bèn quay trở về. Lại có hôm nọ, đáp ứng lời mời của người tín đồ tên Trần Thiên Chương (陳天章), cử hành pháp sự tại tư gia của người này, nhưng chỉ sai chúng tăng tụng một bộ Kinh Kim Cang. Nhân đó, Trần Thiên Chương không vui lòng, vì vậy Thiền Sư Phổ Am phải tụng thêm một bộ Kinh Kim Cang nữa. Về sau, Trần Thiên Chương bị chết sấp giữa đường, rồi ba ngày sau thì tái sanh lại, tự cho là ông bị dẫn xuống Địa Phủ, Phán Quan quở trách ông rằng: “Sao nhà ngươi lại bất kính với Thiền Sư Phổ Am, rồi bắt tụng thêm biến Kinh Kim Cang.” Sau đó, Trần Thiên Chương lại mang một xâu tiền đèn dầu cúng cho Thiền Sư và nhân đó Thiền Sư viết lên lên lưng ông bốn chữ “thí tài công cứ (施財功據, công đức bố thí tiền tài)”. Sau khi Trần Thiên Chương qua đời, trong một gia đình họ Cam (甘) hạ sanh một đứa bé, trên lưng đứa bé ấy xuất hiện dấu tích bốn chữ như vậy. Tương truyền Thiền Sư rất sùng kính Kinh Kim Cang, từng dùng máu mình viết bộ kinh này trong vòng 5 năm trường và sau đó được tôn thờ tại Từ Hóa Tự. Bộ kinh này cùng với bài văn bia Kim Cang Kinh của thi hào Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) ở Huệ Lực Tự (慧力寺), Lâm Giang (臨江), được xem như là hai bảo vật vô giá về Kinh Kim Cang của Giang Tây. Vào năm 1300 (Đại Đức [大德] 4, đời vua Thành Tông [成宗, tại vị 1294-1307] nhà Nguyên), ông được ban cho thụy hiệu là Đại Đức Huệ Khánh (大德慧慶); rồi đến năm 1420 (Vĩnh Lạc [永樂] 18, đời vua Thành Tổ [成祖, tại vị 1402-1424] nhà Minh), ông lại được phong thêm hiệu là Phổ Am Chí Thiện Hoằng Nhân Viên Thông Trí Tuệ Tịch Cảm Ứng Từ Tế Chơn Giác Chiêu Huống Huệ Khánh Hộ Quốc Tuyên Giáo Đại Đức Bồ Tát (普庵至善弘仁圓通智慧寂感妙應慈濟眞覺昭貺慧慶護國宣敎大德菩薩). Tại các tự viện của Lâm Tế Tông, thường có thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am để hàng phục yêu ma. Do vì ông có tính thần dị, có các đạo sĩ không thuộc Phật Giáo lại tôn sùng ông là Tổ Sư, xưng hiệu là Phổ Án Giáo Chủ (普唵敎主) của Phổ Am Phái (普庵派) hay Phổ Án Phái (普唵派). Tượng của ông có nhiều loại khác nhau như tượng Tỳ Kheo, Đạo Sĩ, Tướng Quân, Đế Vương, v.v. Thậm chí như những người chuyên về ngư nghiệp, thuyền hải cũng thường tôn thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am trên thuyền của họ để cầu bình an trên sông nước; nên ông còn được xem như là người có công năng như Hải Thần vậy. Theo truyền thuyết của dân gian, nếu lấy giấy màu hồng, vàng viết lên 8 chữ “Phổ Am đáo thử bách vô cấm kỵ (普庵到此百無禁忌, Phổ Am đến đây, trăm điều không còn cấm kỵ nữa)”, rồi dán trong nhà thì có thể cải thiện được vấn đề phong thủy; hay mang nơi thân mình thì có thể xua đuổi điều xấu và mang lại điều lành. Trong lúc sinh tiền, ông thường làm những điều linh nghiệm như bẻ cây trị bệnh, chặt cây ma quái, cầu mưa, v.v. Hơn nữa, ông lại rất tinh thông Phạn văn, từng lấy Phạn văn phiên âm thành chú, người đời gọi đó là Phổ Am Chú (普庵咒). Thần chú này có thần lực làm cho an định mười phương và tòng lâm, nên thường được tụng tại các tự viện vào mỗi dịp đầu và giữa tháng. Thậm chí thần chú này còn có công năng xua đuổi các loài muỗi, trùng, rắn rít, v.v. Trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch (萬曆, 1573-1620) nhà Minh, Thiền Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) mới đưa thần chú này vào bản Chư Kinh Nhật Tụng (諸經日誦).
(浙翁如琰, Settō Nyoen, 1151-1225): vị tăng của Phái Dương Kì và Phái Đại Huệ thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Triết Ông (浙翁), người Huyện Ninh Hải (寧海), Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang), họ là Quốc (國). Ông đến xuất gia ở Tịnh Độ Viện (淨土院) trong làng và đến năm 18 tuổi thì thọ giới Cụ Túc, sau kế thừa dòng pháp của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光) ở Dục Vương Sơn (育王山, Tỉnh Triết Giang). Ông đã từng sống qua một số nơi như Hàm Thanh Tự (含清寺) ở Nam Kiếm Châu (南劍州, Tỉnh Phúc Kiến), Năng Nhân Tự (能仁寺) ở Việt Châu (越州, Tỉnh Triết Giang), Quang Hiếu Tự (光孝寺) ở Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang), Tương Sơn (蔣山) ở Kiến Khang (建康, Tỉnh Giang Tô), và Thiên Đồng Sơn (天童山). Đến năm thứ 11 (1218) niên hiệu Gia Định (嘉定), ông được cử đến trú trì Kính Sơn (徑山) và được ban cho hiệu là Phật Tâm Thiền Sư (佛心禪師). Vào tháng 7 năm đầu niên hiệu Bảo Khánh (寳慶), ông thị tịch, hưởng thọ 75 tuổi đời và 57 hạ lạp. Chính Đạo Nguyên (道元, Dōgen) của Nhật cũng đã từng tham học với ông ở Kính Sơn.
(無關普門, Mukan Fumon, 1212-1291): vị tăng của Phái Thánh Nhất (聖一派) thuộc Tông Lâm Tế Nhật Bản, tự là Vô Quan (無關), hiệu là Phổ Môn (普門), người vùng Bảo Khoa (保科), Tín Nùng (信濃, Shinano, thuộc Nagano-ken [長野縣]). Lúc lên 7 tuổi, ông theo hầu Tịch Viên (寂圓) ở Chánh Viên Tự (正圓寺) vùng Việt Hậu (越後, Echigo, thuộc Niigata-ken [新潟縣]), đến năm 13 tuổi thì xuống tóc xuất gia, sau một thời gian lâu ông trở về Tín Nùng, sống ở Diêm Điền (塩田). Năm lên 19 tuổi, ông đến tham yết Thích Viên Phòng Vinh Triêu (釋圓房榮朝) ở Trường Lạc Tự (長樂寺, Chōraku-ji) thuộc vùng Thượng Dã (上野, Ueno, thuộc Gunma-ken [群馬縣]), thọ Bồ Tát giới và học về Hiển Mật Viên Thông. Bên cạnh đó, ông còn đến tham vấn Viên Nhĩ (圓爾, Enni) ở Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến Trường (建長), ông sang nhà Tống, đến tham yết Kinh Tẩu Như Ngọc (荆叟如珏) ở Linh Ẩn Tự (靈隱寺) và Đoạn Kiều Diệu Luân (斷橋妙倫) ở Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và được đại ngộ. Đến năm 1261 (năm đầu niên hiệu Hoằng Trường [弘長]), khi Diệu Luân viên tịch thì ông được trao truyền y ca sa như là ấn tín chứng ngộ truyền pháp. Sau một thời gian lưu lãng tuần bái khắp vùng Triết Giang khoảng 12 năm, ông trở về nước, hầu hạ bên gối Viên Nhĩ. Sau đó ông đã từng sống qua các chùa ở vùng Việt Hậu như An Lạc Tự (安樂寺, Anraku-ji), Chánh Viên Tự (正圓寺, Shōen-ji), rồi đến Quang Vân Tự (光雲寺, Kōun-ji) ở vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]). Nhân sự việc yêu quái quấy nhiễu ở Ly Cung Long Sơn của Quy Sơn Thượng Hoàng (龜山上皇, Kameyama Jōkō, 1259-1274) trong một khoảng thời gian dài, nên vào mùa xuân năm 1291 (năm thứ 4 niên hiệu Chánh Ứng [正應]),ông vào cung tọa Thiền nhập định và xua đuổi được yêu quái, từ đó Thượng Hoàng cho xây Thiền đường trong cung và thỉnh ông đến trú trì với tư cách là vị tổ khai sáng đầu tiên. Đây chính là ngôi Thái Bình Hưng Quốc Nam Thiền Tự (太平興國南禪寺, Taiheikōkokunanzen-ji). Cũng chính vào tháng 12 năm này, ông thị tịch, hưởng thọ 80 tuổi đời và 62 hạ lạp. Ông được ban cho hiệu là Phật Tâm Thiền Sư (佛心禪師), Đại Minh Quốc Sư (大明國師). Pháp đồ của ông có Đạo Sơn Huyền Thịnh (道山玄晟), Ngọc Sơn Huyền Đề (玉山玄提), Kim Quang Trúc Ông (金光竹翁), Nham Đậu Minh Đầu (巖竇明投), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập