Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Nếu muốn đi nhanh, hãy đi một mình. Nếu muốn đi xa, hãy đi cùng người khác. (If you want to go fast, go alone. If you want to go far, go together.)Ngạn ngữ Châu Phi
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tam Hà »»

(諸岳奕堂, Morotake Ekidō, 1805-1879): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa hai thời đại Giang Hộ và Minh Trị, húy là Dịch Đường (奕堂), đạo hiệu Toàn Nhai (旋崖), hiệu là Vô Tợ Tử (無似子), Tam Giới Vô Lại (三界無頼), thụy hiệu Hoằng Tế Từ Đức Thiền Sư (弘濟慈德禪師), xuất thân vùng Danh Cổ Ốc (名古屋, Nagoya), Vĩ Trương (尾張, Owari). Năm 1813, ông theo xuất gia với Tuyết Đường Hiểu Lâm (雪堂曉林) ở Thánh Ứng Tự (聖應寺) vùng Vĩ Trương, sau đó kế thừa dòng pháp của vị nầy. Sau ông có theo hầu Đạo Khế Chứng Ứng (道契証應) ở Đổng Long Tự (董龍寺), Lai Ứng (來應) ở Chánh Võ Tự (正武寺) vùng Mỹ Nùng (美濃, Mino), Động Môn (洞門) ở Toàn Cửu Viện (全久院) vùng Tín Nùng (信濃, Shinano), và được ấn khả của Bổn Cao (本高) ở Hương Tích Tự (香積寺) vùng Tam Hà (三河, Mikawa). Về sau, ông đã từng sống qua vài nơi như Long Hải Viện (龍海院), Thiên Đức Viện (天德院) ở Gia Hạ (加賀, Kaga), và nỗ lực điều đình hòa hoãn cuộc kháng tranh giữa hai chùa Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji) và Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji). Trước tác của ông có Huyền Lâu Thiền Sư Lược Truyện (玄樓禪師略傳), Tổng Trì Dịch Đường Thiền Sư Di Cảo (總持奕堂禪 師遺稿), Toàn Nhai Dịch Đường Thiền Sư Ngữ Lục (旋崖奕堂禪師語錄).
(妙國寺, Myōkoku-ji): ngôi chùa của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại số 1-4 Zaimokuchōhigashi (材木町東), Sakai-ku (堺區), Sakai-shi (堺市), Ōsaka-fu (大阪府); hiệu là Quảng Phổ Sơn (廣普山), người đời thường gọi là Tô Thiết Tự (蘇鐵寺). Phát xuất từ việc Trưởng Quan Kami của vùng Tam Quốc (三國, Mikuni), Nhiếp Hà Tuyền (攝河泉) là Tam Hảo Chi Khang (三好之康, tức Tam Hảo Nghĩa Hiền [三好義賢, Miyoshi Yoshikata]) bị chiến tử vào năm 1562 (Vĩnh Lộc [永祿] 5), em ông là Nghĩa Trường (義長) bèn phát tâm cúng dường toàn bộ biệt trang của Chi Khang để xây chùa với mục đích hồi hướng công đức cầu nguyện cho anh ông được siêu độ. Nhân đó, một thương gia giàu có trong vùng là Du Ốc Thường Ngôn (油屋常言) cúng dường xây dựng các ngôi đường xá; và Phật Tâm Viện Nhật Quang (佛心院日珖), con trai của Thường Ngôn, trở thành Tổ khai sơn của chùa này. Đến năm 1594 (Văn Lộc [文祿] 3), nhân khi Nhật Quang kế thừa ngôi vị trú trì của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), ngôi chùa này được liệt ngang hàng với Đảnh Diệu Tự (頂妙寺) và Bổn Pháp Tự (本法寺) ở kinh đô Kyoto. Vâng mệnh của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu), vị trú trì đời thứ 2 của chùa là Nhật Thống (日統) cùng với Nhật Thiệu (日紹) đã luận tranh Tông nghĩa với Nhật Áo (日奥) ở Thành Đại Phản (大阪城), và luận thắng chủ trương Không Nhận Không Cho của Nhật Áo. Chùa hiện còn một số kiến trúc chính như Chánh Điện, Tháp Ba Tầng, Phương Trượng, Khách Điện, Nhà Kho, v.v. Trong khuôn viên chùa còn có cây Tô Thiết (蘇鐵) rất lớn, tương truyền được đem từ vương quốc Cao Lệ (Triều Tiên) sang trồng. Người ta bảo rằng Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga) có lần đã đem cây này trồng trong Thành An Thổ (安土城, Azuchi-jō), nhưng đêm về lại nghe tiếng yêu quái vang rền, nên ông đem trả cây lại cho chùa.
(德川, Tokugawa): tên gọi của một dòng họ, là dòng họ Tướng Quân của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ. Nguyên lai của dòng họ này phát xuất từ họ Tùng Bình (松平, Matsudaira) ở Thôn Tùng Bình (松平村), Quận Gia Mậu (加茂郡), tiểu quốc Tam Hà (三河, Mikawa). Có thuyết cho rằng để làm Tướng Quân, Gia Khang (家康, Ieyasu) đã cho Phạm Thuấn (梵舜) ngụy tạo gia hệ của mình mà đổi thành Đức Xuyên.
(藥石, yakuseki): nghĩa là thuốc chữa bệnh và cây kim bằng đá, tức y dược và đồ dùng trị bệnh. Trong La Hán Dược Thực Điều (羅漢藥食條) của Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑) có đoạn rằng: “Thực đương tác thạch, thủ liệu bệnh nghĩa, cố viết dược thạch (食當作石、取療病義、故曰藥石, thức ăn nên xem như đá, với nghĩa để trị bệnh, cho nên gọi là viên đá thuốc)”. Từ này còn gọi là dược thực (藥食, thức ăn thuốc), tức bữa ăn chiều trong Thiền môn. Đức Phật quy định rằng các Tỳ Kheo không được ăn quá ngọ, cho nên các tự viện Thiền Tông gọi bữa ăn chiều là dược thạch (藥石, viên đá thuốc) và đó cũng là ẩn ngữ của buổi ăn tối. Hơn nữa, căn cứ vào tích xưa có vị tăng mỗi ngày chỉ ăn 2 bữa mà thôi, nhưng đến mùa đông lạnh giá, đến buổi chiều tối vị này thường lấy khối đá hâm nóng bỏ trên bụng mình để chống lạnh và trị cơn đói, như là linh đơn có thể trị các bệnh về đường ruột, cho nên đời sau người ta thường gọi bữa ăn thứ 3 trong 1 ngày là dược thạch. Trong phần Đạt Ma Kỵ (達摩忌) của Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) 2 có đoạn rằng: “Tất minh Tăng Đường chung tam hạ, chúng tán hoặc thỉnh tựu tọa dược thạch (畢鳴僧堂鐘三下、眾散或請就坐藥石, sau khi đánh ba tiếng chuông ở Tăng Đường xong, đại chúng phân tán hay mời ngồi dùng cơm chiều).”
(皇圓, Kōen, ?-1169): vị học Tăng của Thiên Thai Tông, húy là Hoàng Viên (皇圓), thông xưng là Phì Hậu A Xà Lê (肥後阿闍梨), Công Đức Viện A Xà Lê (功德院阿闍梨); con trai đầu của vị Trưởng Quan Kami vùng Tam Hà (三河, Mikawa) là Đằng Nguyên Trùng Kiêm (藤原重兼). Sau đó ông xuất gia, ông lên Tỷ Duệ Sơn, theo hầu hạ Hoàng Giác (皇覺) thuộc Dòng Thương Sanh (椙生流) và tu học cả Hiển lẫn Mật Giáo. Sau đó, ông đến trú tại Công Đức Viện ở phía Đông Tháp, chuyên tâm giáo dưỡng học đồ, mà trong đó có Nguyên Không (源空), tức Pháp Nhiên (法然, Hōnen), sau này trở thành vị Tổ khai sáng nên một Tông phái riêng. Ông rất tường tận về lịch sử, và là tác giả của bộ sử thư nổi tiếng Phù Tang Lược Ký (扶桑略記), 30 quyển. Tương truyền rằng vào năm 1169, ông thác hóa thành con rắn lớn để chờ đến khi Đức Phật Di Lặc ra đời.
(s: padma, kōren, 紅蓮): hoa sen hồng, âm dịch là Bát Đầu Ma (鉢頭摩), nguyên sản ở vùng Đông Ấn Độ, Ba Tư (波斯). Trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音, Quan Âm Ngày Tay), có 1 tay bên phải cầm hoa này, gọi là Hồng Liên Hoa Thủ (紅蓮華手, tay hoa sen hồng). Trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Bi Tâm Đà La Ni (千手千眼觀世音菩薩大悲心陀羅尼, Taishō 20, 118) có đoạn rằng: “Nhược vi cầu sanh chư Thiên cung giả, đương ư Hồng Liên Hoa Thủ; chơn ngôn: 'án thương yết lệ tát phạ hạ' (若爲求生諸天宮者、當於紅蓮華手、眞言:唵商掲隷薩嚩賀, nếu có người vì cầu sanh lên cung điện của chư Thiên thì nên ở nơi cánh tay cầm hoa sen hồng; chơn ngôn là 'án thương yết lệ tát phạ hạ').” Trong bài kệ xưng tán Kinh Pháp Hoa có câu: “Lục vạn dư ngôn thất trục trang, vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng, Bạch Ngọc xỉ biên lưu Xá Lợi, Hồng Liên thiệt thượng phóng hào quang, hầu trung Cam Lồ quyên quyên nhuận, khẩu nội Đề Hồ trích trích lương, giả nhiêu tạo tội quá sơn nhạc, bất tu diệu pháp lưỡng Tam Hàng (六萬餘言七軸裝、無邊妙義廣含藏、白玉齒邊流舍利、紅蓮舌上放毫光、喉中甘露涓涓潤、口內醍醐滴滴涼、假饒造罪過山嶽、不須妙法兩三行, hơn sáu vạn lời bảy cuốn thành, vô biên nghĩa mầu rộng ẩn tàng, bên răng Ngọc Trắng tuôn Xá Lợi, trên lưỡi sen hồng phóng hào quang, trong cổ Cam Lồ rả rích nhỏ, trên miệng Đề Hồ giọt giọt tan, giả như tạo tội hơn núi cả, chẳng bằng diệu pháp vài ba hàng).”
(今川, Imagawa): tên gọi của một dòng họ, chi tộc của họ Túc Lợi (足利), Thủ Hộ Đại Danh của vùng đất Tuấn Hà (駿河, Suruga), sau đó làm Đại Danh Chiến Quốc cả vùng Đông Hải. Quê hương gốc của dòng họ này là vùng Kim Xuyên (今川), Quận Phan Đậu (幡豆郡), tiểu quốc Tam Hà (三河, Mikawa).
(了源, Ryōgen, 1295-1336): vị Tăng của Chơn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương, vị Tổ đời thứ 7 của Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji), thuộc Phái Phật Quang Tự (佛光寺派), vị tổ đời thứ 7 của Hưng Chánh Tự (興正寺, Kōshō-ji) thuộc Phái Hưng Chánh (興正派), húy là Liễu Nguyên (了源), tục danh là Di Tam Lang (彌三郎), hiệu là Không Tánh (空性), húy là Quang Sơn Viện (光山院); con của Liễu Hải (了海), vị Tổ đời thứ 4 của Phật Quang Tự. Năm 1320, ông lên kinh đô, làm môn đệ của Giác Như (覺如, Kakunyo) ở Bổn Nguyên Tự (本願寺, Hongan-ji), nhưng lại trực tiếp theo hầu hạ Tồn Giác (存覺, Zonkaku). Vào năm 1324, ông kiến lập nên Hưng Chánh Tự (興正寺, ) ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) thuộc Sơn Thành (山城, Yamashiro), rồi sau đó chuyển ngôi chùa này đến vùng Sáp Cốc (澀谷, Shibuya) thuộc Đông Sơn, và đổi tên thành Phật Quang Tự (佛光寺, Bukkō-ji). Ông đã nỗ lực giáo hóa khắp các địa phương như Cận Kỳ (近畿, Kinki), Tam Hà (三河, Mikawa), Vĩ Trương (尾張, Owari), v.v., và trở thành vị tổ thời Trung Hưng của Phái Phật Quang Tự. Tác phẩm của ông để lại có Nhất Lưu Tương Truyền Đồ (一流相傳圖) 1 bức, Sơn Khoa Sáng Tự Mộ Duyên Sớ (山科創寺募緣疏) 1 quyển, Toán Đầu Lục (算頭錄).
(鈴木正三, Suzuki Shōsan, 1579-1655): vị Thiền Tăng sống vào đầu thời kỳ Giang Hộ; húy là Chánh Tam (正三), Xương Tam (昌三), Thánh Tam (聖三), hay Trùng Tam (重三); thông xưng là Cửu Thái Phu (九太夫); hiệu Huyền Huyền Hiên (玄玄軒), Thạch Bình Đạo Nhân (石平道人); xuất thân vùng Túc Trợ (足助, Asuke), Tam Hà (三河, Mikawa, thuộc Aichi-ken [愛知縣]); trưởng nam của Linh Mộc Trùng Thứ (鈴木重次, Suzuki Shigetsugi), anh của Linh Mộc Trùng Thành (鈴木重成, Suzuki Shigenari). Ông đã từng phục vụ cho hai Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) và Đức Xuyên Tú Trung (德川秀忠, Tokugawa Hidetada), lập nhiều chiến công trong trận chiến Sekigahara (關ヶ原) cũng như trận công kích Thành Osaka; nhưng đến năm 42 tuổi, ông xuất gia. Ông từng đến tham Thiền học đạo với chư vị cao tăng của Lâm Tế Tông cũng như Tào Động Tông. Đến năm 1624, ông sáng lập Ân Chơn Tự (恩眞寺) ở vùng Tam Hà. Vào năm 1641, sau vụ Loạn Đảo Nguyên (島原の亂, Shimabara-no-ran), ông đến vùng Thiên Thảo (天草, Amakusa), viết cuốn Phá Cát Lợi Chi Đan (破吉利支丹) và nổ lực bài trừ Thiên Chúa Giáo. Đến cuối đời, ông chuyên tâm giáo hóa chúng đạo tục, khuyến khích hành Thiền ở Liễu Tâm Am (了心庵) vùng Thiển Thảo (淺草, Asakusa), Giang Hộ. Trước tác của ông có rất nhiều như Lô Án Kiều (驢案橋) 3 quyển, Nhị Nhân Tỳ Kheo Ni (二人比丘尼) 2 quyển, Vạn Dân Đức Dụng (萬民德用) 1 quyển, Manh An Trượng (盲安杖) 1 quyển, Phá Cát Lợi Chi Đan (破吉利支丹) 1 quyển, Niệm Phật Thảo Chỉ (念佛草紙) 2 quyển, Linh Mộc Chánh Tam Đạo Nhân Toàn Tập (鈴木正三道人全集) 1 quyển, Phản Cố Tập (反故集), Nhân Quả Vật Ngữ (因果物語), v.v.
(魯氏): tức Lỗ Ban (魯般、魯班), người thợ kiến trúc kiệt xuất, nổi tiếng của nước Lỗ dưới thời nhà Chu, ông họ là Công Thâu (公輸), kỹ nghệ siêu tuyệt, có nhiều phát minh lạ, đời sau tôn sùng ông là tổ sư của nghề mộc. Có thuyết cho rằng Công Thâu Tử (公輸子) cùng nhân vật với Lỗ Ban này, nhưng cũng có thuyết cho là khác. Tương truyền ông chế ra cái thang dài đến tận mây xanh (vân thê [雲梯], dùng làm khí giới tấn công thành quách) và con diều gỗ (mộc diên [木鳶], có thể giống như chiếc máy bay). Như trong Mạnh Tử (孟子), phần Ly Lâu Thượng (離婁上) có câu: “Ly Lâu chi minh, Công Thâu Tử chi công, bất dĩ quy củ, bất năng thành phương viên (離婁之明、公輸子之巧、不以規矩、不能成方員, sự sáng suốt của Ly Lâu, tài khéo tay của Công Thâu Tử, nếu không theo quy củ, không thể thành vuông tròn).” Hay trong Nhật Dụng Tục Tự (日用俗字), phần Mộc Tượng (木匠) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh có giải thích rằng: “Mộc tượng tổ sư thị Lỗ Ban, gia hỏa học thành tải nhất thuyền (木匠祖師是魯班、家伙學成載一船, tổ sư nghề mộc là Lỗ Ban, từ những điều góp nhặt học thành, chở đầy một thuyền).” Về lai lịch của ông, trong Tây Dương Tạp Trở (酉陽雜俎) Tục Tập, quyển 4 có ghi rằng: “Cứ Triều Dã Thiêm Tải vân: 'Lỗ Ban giả, Túc Châu Đôn Hoàng nhân, mạc tường niên đại, công mâu tạo hóa; ư Lương Châu tạo Phù Đồ, tác mộc diên, mỗi kích tiết tam hạ, thừa chi dĩ quy; vô hà, kỳ thê hữu nhâm; phụ mẫu cật chi, thê cụ thuyết kỳ cố; phụ hậu tứ đắc diên, kích tiết thập dư hạ thừa chi, toại chí Ngô hội; Ngô nhân dĩ vi yêu, toại sát chi; Ban hựu vi mộc diên thừa chi, toại hoạch phụ thi; oán Ngô nhân sát kỳ phụ, ư Túc Châu thành Nam tác nhất mộc tiên nhân, cử thủ chỉ Đông Nam, Ngô địa đại hạn tam niên; Bặc viết Ban sở vi dã; tê vật cụ thiên số tạ chi; Ban vi đoạn nhất thủ, kỳ nhật Ngô trung đại vũ; quốc sơ, thổ nhân thượng kỳ đảo kỳ mộc tiên; Lục Quốc thời, Công Thâu Ban diệc vi mộc diên dĩ khuy Tống thành' (據朝野僉載雲、魯般者、肅州敦煌人、莫詳年代、巧侔造化、於涼州造浮圖、作木鳶、每擊楔三下、乘之以歸、無何、其妻有妊、父母詰之、妻具說其故、父後伺得鳶、擊楔十余下、乘之遂至吳會、吳人以爲妖、遂殺之、般又爲木鳶乘之、遂獲父屍、怨吳人殺其父、於肅州城南作一木仙人、舉手指東南、吳地大旱三年、蔔曰般所爲也、賫物具千數謝之、般為斷一手、其日吳中大雨、國初、土人尚祈禱其木仙、六國時、公輸般亦爲木鳶以窺宋城, theo Triều Dã Thiêm Tải cho rằng: 'Lỗ Ban là người Đôn Hoàng, Túc Châu, không rõ niên đại, khéo tay nằng tạo hóa; tại Lương Châu ông từng dựng chùa Phật, làm diều gỗ; mỗi lần vỗ nó vào ba lần, cỡi lên diều trở về nhà; không hiểu vì sao, vợ ông mang thai, cha mẹ đều hỏi han; vợ ông kể rõ nguyên do; sau đó người cha dò xét xem sao và có được diều gỗ; ông vỗ vào hơn mười lần, rồi cỡi lên bèn đến đất Ngô; dân Ngô cho đó là yêu quái, liền giết chết ông; Lỗ Ban lại cỡi lên con diều gỗ, lấy được thi hà phụ thân, oán hận dân Ngô giết cha mình, bèn làm một hình tiên nhân bằng gỗ ở phía Nam thành Túc Châu, đưa tay chỉ về hướng Đông Nam, từ đó đất Ngô bị hạn hán ba năm; vua Bặc bảo rằng đó là do Lỗ Ban làm ra, bèn sai đem vật phẩm đủ số ngàn tạ ông; Lỗ Ban chém đứt một tay người gỗ, ngày hôm ấy trong nước Ngô mưa lớn; lúc mới lập quốc, người dân trong vùng vẫn thường cầu nguyện tiên nhân gỗ; đến thời Lục Quốc, Công Thâu Ban cũng dùng diều gỗ để thám thính thành nhà Tống').” Theo Lỗ Ban Kinh (魯班經), phần Lỗ Ban Tiên Sư Nguyên Lưu (魯班先師源流) của Đạo Giáo cho rằng ông húy là Ban, họ Công Thâu (公輸), tự là Y Trí (依智), người Thôn Đông Bình (東平村); cha húy là Hiền (賢), mẹ họ Ngô (吳), người nước Lỗ; nên được lấy tên nước làm họ; sanh vào năm thứ 13 (507 ttl.) đời Chu Kính Vương (周敬王) và mất năm thứ 25 (444 ttl.) đời vua Chu Trinh Định Vương (周貞定王). Lỗ Ban còn nổi tiếng về bùa, chú, ếm đối, nên thường có loại Bùa Lỗ Ban. Trong dân gian vẫn thường có thành ngữ “Ban môn lộng phủ (班門弄斧)”, nghĩa là múa búa trước cửa Lỗ Ban, hay múa rìu qua mắt thợ, là để chỉ người không biết liệu tài sức của mình, dám khoe tài trước mặt bực thầy, nên chỉ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi. Như trong bài Dữ Mai Thánh Du Thư (與梅聖俞書) của văn học gia Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) nhà Tống có câu: “Tạc tại Chơn Định, hữu thi thất bát thủ, kim lục khứ, Ban môn lộng phủ, khả tiếu khả tiếu (昨在 眞定、有詩七八首、今錄去、 班門弄斧、可笑可笑, hôm qua tại Chơn Định, có làm bảy tám câu thơ, nay xem lại, đúng là múa búa trước cửa Lỗ Ban, nực cười nực cười thay !).” Hiện tại vẫn lưu hành Thước Lỗ Ban (魯班尺), hay thường được gọi là Thước Văn Công (文公尺), dài 1 thước 4 tấc 1 phân, lấy 5 chữ sanh (生), lão (老), bệnh (病), tử (死), khổ (苦) làm cơ sở, chia thành 8 cách, mỗi cách có cát hung, tốt xấu, theo đó phân thành 8 cung:
(1) Tài (財, tiền tài, tài năng),
(2) Bệnh (病, bệnh hoạn, bất lợi),
(3) Ly (離, Lục Thân ly tán, chia lìa)
(4) Nghĩa (義, phù hợp chính nghĩa, quy phạm đạo đức, hay khuyên người làm việc thiện),
(5) Quan (官, vận làm quan, chức quyền cao),
(6) Kiếp (劫, bị cướp đoạt, áp bức),
(7) Hại (害, hoạn nạn, nguy hại),
(8) Bổn (本, bản vị hay bản thể của sự vật).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập