Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phật hiệu »»
(九蓮): từ gọi tắt của Cửu Phẩm Liên Đài (九品蓮臺), là đài sen có 9 phẩm của hành giả ngồi lên khi được vãng sanh. Lúc hành giả lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng các Thánh chúng cầm đài sen đến tiếp rước, hành giả ngồi lên đài sen và hoa tự khắc dẫn đến cõi Tịnh Độ. Khi đến nơi, hoa nở ra, thân tướng đầy đủ. Phẩm vị của hành giả được phân làm 9 loại, được gọi là Cửu Phẩm Vãng Sanh (九品徃生), gồm Thượng Phẩm Thượng Sanh (上品上生), Thượng Phẩm Trung Sanh (上品中生), Thượng Phẩm Hạ Sanh (上品下生), Trung Phẩm Thượng Sanh (中品上生), Trung Phẩm Trung Sanh (中品中生), Trung Phẩm Hạ Sanh (中品下生), Hạ Phẩm Thượng Sanh (下品上生), Hạ Phẩm Trung Sanh (下品中生) và Hạ Phẩm Hạ Sanh (下品下生). Từ đó, đài sen cũng có 9 phẩm khác nhau. Các phẩm này được thuật rõ trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經). Trong đó, trừ Trung Phẩm Hạ Sanh không có tên gọi, còn lại các phẩm khác theo thứ tự có tên như sau: Kim Cang Đài (金剛臺), Tử Kim Đài (紫金臺), Kim Liên Hoa (金蓮華), Liên Hoa Đài (蓮華臺), Thất Bảo Lien Hoa (七寳蓮華), Bảo Liên Hoa (寳蓮華), Liên Hoa (蓮華) và Kim Liên Hoa (金蓮華). Như trong Huệ Lâm Tông Bổn Thiền Sư Biệt Lục (慧林宗本禪師別錄, CBETA No. 1450) có câu: “Thử phương thân dĩ tạ, Tịnh Quốc Cửu Liên khai (此方身已謝、淨國九蓮開, chốn này thân đã hết, Tịnh Độ Chín Sen khai).” Hay trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) cũng có câu: “Ức niệm Di Đà thanh triệt để, phản văn Phật hiệu tự ưu du, Lục Căn bất động thường điềm tĩnh, vạn pháp quy nguyên tận bãi hưu, phao khước nhân gian danh lợi sự, nhất tâm đốn nhập Cửu Liên chu (憶念彌陀清徹底、返聞佛號自優游、六根不動常恬靜、萬法歸源盡罷休、拋卻人閒名利事、一心頓入九蓮舟, nhớ niệm Di Đà trong triệt để, phản nghe Phật hiệu tự thong dong, Sáu Căn chẳng động thường điềm tĩnh, muôn pháp về nguồn dứt nghĩ luôn, vứt bỏ nhân gian danh lợi chuyện, nhất tâm vào thẳng Chín Sen thuyền).”
(s: Bhaiṣajyasamudgata, 藥上): tên của một vị Bồ Tát trong số 25 vị của đức Phật Di Đà; cùng với Dược Vương (s: Bhaiṣajya-rāja, 藥王), là hai Bồ Tát thường hầu cận bên phật Dược Sư. Theo Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát Kinh (觀藥王藥上二菩薩經) cho biết rằng, cả hai từng là anh em ruột thịt, đều là trưởng giả giàu có, Dược Vương là Tinh Tú Quang (星宿光); Dược Thượng là Điện Quang Minh (電光明). Vào đời tương lai họ sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Nhãn (s: Vimala-netra, 淨眼) và Tịnh Tạng (s: Vimala-garbha, 淨藏). Về toàn thể, hình tượng của Dược Thượng Bồ Tát cũng giống như Dược Vương Bồ Tát, nhưng chỉ khác nhau là trên tay phải chỉ cầm bình thuốc mà thôi.
(s: Bhaiṣajya-rāja, 藥王): dịch âm là Bế Thệ Xả La Nhạ (鞞逝捨羅惹), là vị Bồ Tát thường ban các loại thuốc tốt để trị các bịnh khổ về thân lẫn tâm của chúng sanh. Đây là 1 trong 25 vị Bồ Tát của đức Phật A Di Đà. Theo Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ Tát (觀藥王藥上二菩薩經) cho biết rằng, trong đời quá khứ vô lượng vô biên A Tăng Kỳ kiếp có đức Phật hiệu là Lưu Ly Quang Chiếu Như Lai (琉璃光照如來), quốc độ của Ngài tên là Huyền Thắng Phan (懸勝幡). Sau khi vị Phật này nhập Niết Bàn, vào đời tượng pháp có vị Tỳ Kheo tên Nhật Tạng (日藏) thông minh, nhiều trí tuệ, vì đại chúng mà diễn thuyết trí tuệ lớn bình đẳng thanh tịnh vô thượng của Đại Thừa. Khi ấy trong hội chúng có trưởng giả tên là Tinh Tú Quang (星宿光) nhân nghe được trí tuệ này tâm liền sanh hoan hỷ, bèn lấy thuốc tốt trên núi Tuyết Sơn đem dâng cúng dường cho Tỳ Kheo Nhật Tạng và chúng tăng, còn phát nguyện đem công đức này hồi hướng để được giác ngộ vô thượng. nếu chúng sanh nào nghe được tên của mình nguyện cho người ấy được diệt trừ 3 loại bịnh khổ. Lúc bấy giờ người em của trưởng giả là Điện Quang Minh (電光明) cũng theo người anh mình mang các loại thuốc tốt đến dâng cúng Tỳ Kheo Nhật Tạng và chúng tăng, cũng phát bồ đề tâm lớn, nguyện được thành Phật. Lúc đó toàn thể đại chúng đều tán thán trưởng giả Tinh Tú Quang là Dược Vương (vua của các loại thuốc), còn Điện Quang Minh là Dược Thượng. Về sau hai vị này đã chứng đắc ngôi vị Bồ Tát với tên gọi như vậy. Cũng kinh này cho biết rằng, hai vị Bồ Tát đã từng tu phạm hạnh trong khoảng thời gian lâu dài, các nguyện đã được tròn đầy, Dược Vương Bồ Tát sẽ thành Phật trong đời tương lai, hiệu là Tịnh Nhãn Như Lai (s: Vimala-netra, 淨眼如來) và Dược Thượng Bồ Tát cũng thành Phật hiệu là Tịnh Tạng Như Lai (s: Vimala-garbha, 淨藏如來). Lại nữa, trong phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự (藥王菩薩本事) của kinh Pháp Hoa cũng nói rằng, trong thời quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp có đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai (日月淨明德如來), tuổi thọ của vị Phật này là 42.000 kiếp. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát (一切眾生喜見菩薩) tu tập khổ hạnh, tinh tấn kinh hành, nhất tâm cầu Phật. Trải qua 12.000 tuổi, chứng được Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân Tam Muội (現一切色身三昧). Vị này phủ lên mình các loại hương, dầu rồi đốt cháy thân mình cúng dường Phật trong vòng 1200 năm. Sau khi mạng chung, lại hóa sanh vào gia đình của vua Tịnh Đức, được Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai phó chúc cho. Sau khi vị Phật này qua đời, Bồ Tát đã tạo dựng 84.000 ngôi tháp. Chính bản thân của Ngài trong vòng 72.000 năm đã từng đốt cánh tay cúng dường các tháp ấy. Ngài còn có tên gọi là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, tức là Dược Vương Bồ Tát bây giờ. Riêng phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bản Sự, cuốn 7, Kinh Pháp Hoa cho biết rằng vào thời quá khứ vô số kiếp có ngài Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật (雲雷音宿王華智佛) thuyết Kinh Pháp Hoa. Lúc bấy giờ có vị quốc vương tên là Diệu Trang Nghiêm (s: Śubha-vyūha, 妙莊嚴), phu nhân tên là Tịnh Đức (s: Vimala-datta, 淨德) và hai người con tên là Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn. Vị vua này tin vào tà kiến tu theo pháp của ngoại đạo nên phu nhân cùng với hai người con đã dùng nhiều loại phương tiện khác nhau khiến cho nhà vua đến chỗ của Tú Vương Hoa Trí Phật để nghe kinh Pháp Hoa và đã được lợi ích. Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn hiện tại là Dược Vương và Dược Thượng. Hình tượng của Dược Vương Bồ Tát thông thường trên đầu có đội mũ báu, tay trái nắm chặt lại đặt ngang hông, tay phải đặt trước ngực, ngón tay cái, ngón áp út và ngón tay giữa cầm cây dược thảo hình Tam Muội Da hình Hoa Sen.
(覺皇): vua giác ngộ, còn gọi là Giác Vương (覺王), xưng hiệu của Phật. Như trong bài Đại Hưng Long Tiết Công Đức Sớ (代興龍節功德疏) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống có câu: “Phục nguyện bằng Giác Hoàng chi ngoại trợ, hiệu thần tử chi nội tâm (伏願憑覺皇之外助、效臣子之內心, cúi mong nương Giác Hoàng ấy ngoài giúp, chữa chúng thần ấy trong tâm).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Lục Hiến Tổng Văn (六獻總文), lại có đoạn: “Như Cam Lộ nhi ốc tâm, tợ Đề Hồ nhi quán đảnh, hà tất cánh tầm Di Lặc Phật, chỉ kim hạnh đổ Thích Ca Sư, cung đối Giác Hoàng, liêu ngâm Phật vận, tín sĩ kiền thành, cung thân thiết bái (如甘露而沃心、似醍醐而灌頂、何必更尋彌勒佛、只今幸睹釋迦師、恭對覺皇、聊吟佛韻、信士虔誠、躬身設拜, như Cam Lộ mà rót tâm, tựa Đề Hồ mà rưới đầu, hà tất lại tìm Di Lặc Phật, chỉ nay may gặp Thích Ca Ngài, cung đối Giác Hoàng, hứng ngâm Phật hiệu, tín đồ lòng thành, cúi thân lễ lạy).”
(香積): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Tên gọi của vị Phật ở thế giới của các loại hương thơm. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475) quyển Hạ, Phẩm Hương Tích Phật (香積佛品) thứ 10, có đoạn: “Thượng phương giới phân quá tứ thập nhị Hằng hà sa Phật độ, hữu quốc danh Chúng Hương, Phật hiệu Hương Tích, kim hiện tại kỳ quốc hương khí, tỷ ư thập phương chư Phật thế giới nhân thiên chi hương, tối vi đệ nhất; bỉ độ vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật danh, duy hữu thanh tịnh đại Bồ Tát chúng, Phật vi thuyết pháp; kỳ giới nhất thiết giai dĩ hương tác lâu các, kinh hành hương địa, uyển viên giai hương, kỳ thực hương khí, châu lưu thập phương vô lượng thế giới (上方界分過四十二恆河沙佛土、有國名眾香、佛號香積、今現在其國香氣、比於十方諸佛世界人天之香、最爲第一、彼土無有聲聞、辟支佛名、唯有清淨大菩薩眾、佛爲說法、其界一切皆以香作樓閣、經行香地、苑園皆香、其食香氣、周流十方無量世界, thế giới phương trên phân quá bốn mươi hai Hằng hà sa cõi Phật, có nước tên là Chúng Hương [các loại hương], đức Phật hiệu là Hương Tích, nay hiện tại hương khí của nước ấy, so sánh với hương của trời người trong thế giới của mười phương các đức Phật, tột cùng số một; quốc độ kia không có tên Thanh Văn, Bích Chi Phật, chỉ có chúng đại Bồ Tát thanh tịnh, Phật vì họ thuyết pháp; thế giới ấy tất cả đều lấy hương làm thành lầu gác, kinh hành nơi đất hương, vườn nhà đều ngát hương, họ ăn hương khí, cùng khắp mười phương vô lượng thế giới).” (2) Chỉ cõi nước Phật, tự viện Phật Giáo. Như trong bài thơ Thu Dạ Túc Công Phòng Hỷ Phổ Môn Thượng Nhân Tư Dương Tiện Sơn Chí (秋夜肅公房喜普門上人自陽羡山至) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, 709-780) nhà Đường có câu: “Tảo vãng lai Hương Tích, hà nhân trú Ốc Châu (早晚來香積、何人住沃洲, sớm chiều đến Hương Tích, người nào sống Ốc Châu).” Hay trong bài thơ Quá Trung Phong Lễ Thương Công Tháp (過中峰禮蒼公塔) của Ngô Vĩ Nghiệp (吳偉業, 1609-1671) nhà Thanh cũng có câu: “Điểu đề hương tích tán, hoa lạc ảnh đường cô (鳥啼香積散、花落影堂孤, chim kêu chùa tan tác, hoa rụng bóng nhà đơn).” (3) Chỉ thức ăn của chúng tăng hay Đạo sĩ. Như trong bài thơ Lão Trần Đạo Nhân Tự Vân Mộng Bị Chiêu Tác Địa Thượng Chủ Giả Hựu Thường Thọ Nhất Quý Gia Cúng Chúc Chi Viết Tha Nhật Tất Lai Ngô Gia Tác Nhi Hí Tặng Tiểu Tụng (老陳道人自雲夢被召作地上主者又常受一貴家供祝之曰他日必來吾家作兒戲贈小頌) của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193) nhà Tống có câu: “Hạnh hữu thiên môn hương tích cúng, bất như tùy hỷ khử la trai (幸有千門香積供、不如隨喜去羅齋, may có ngàn nhà dâng cơm cúng, không bằng tùy hỷ bỏ mời ăn).” (4) Từ gọi tắt của Hương Tích Trù (香積廚, Bếp Hương Tích). Trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Thỉnh Phật Văn (請佛文), có đoạn: “Sái phi phi chi pháp vũ, phiến táp táp chi từ phong, quảng khai Hương Tích chi trù, phổ hiến Tô Đà chi soạn (洒霏霏之法雨、扇颯颯之慈風、廣開香積之廚、普獻酥酡之饌, rưới lả tả ấy mưa pháp, quạt vù vù ấy gió từ, rộng mở Hương Tích bếp trời, cúng khắp Tô Đà cỗ lạt).” Hay trong Hoa Nghiêm Kinh Chú Sớ (華嚴經疏注, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 7, No. 234) quyển 4 lại có câu: “Hương Tích thế giới, xan hương phạn, nhi Tam Muội hiển; Cực Lạc Phật quốc, thính phong kha, nhi chánh niệm thành (香積世界、餐香飯、而三昧顯、極樂佛國、聽風柯、而正念成, Hương Tích thế giới, ăn cơm hương, mà Tam Muội tỏ; Cực Lạc Phật quốc, nghe gió lay, mà chánh niệm thành).”
(蓮邦): gọi đủ là Liên Hoa chi bang (蓮華之邦), nghĩa là quốc độ, đất nước hoa sen. Đây là tên gọi khác của thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂), vì tất cả chúng sanh trên cõi Cực Lạc đều an trú trong hoa sen. Như trong Phổ Năng Tung Thiền Sư Tịnh Độ Thi (普能嵩禪師淨土詩, CBETA No. 1215) có bài thơ rằng: “Đài đầu tận thị Hoàng Kim điện, cử nhãn vô phi Bạch Ngọc đường, Thất Bảo Diêu Trì phu hạm đạm, Bát Công Đức Thủy hý uyên ương, chư quân chơn đáo Liên Bang quốc, tiện thỉnh tri âm hòa nhất chương, thanh thanh Phật hiệu hữu vô trúng chỉ yếu hành nhân tín nguyện sung (抬頭盡是黃金殿、舉眼無非白玉堂、七寶瑤池敷菡萏、八功德水戲鴛鴦、諸君真到蓮邦國、便請知音和一章、聲聲佛號有無中、只要行人信願充, ngẩng đầu lên ấy vàng ròng điện, mở mắt nào hay ngọc trắng đường, bảy báu Diêu Trì phô sen nở, Tám Công Đức Nước giỡn uyên ương, mọi người đã đến Liên Bang cõi, xin thỉnh tri âm hòa một chương, mỗi danh hiệu Phật có không thảy, chỉ cần hành giả tín nguyện tròn).” Hay như trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, CBETA No. 1204) quyển 3 cũng có câu: “Ngũ lậu thân thành chướng cấu đa, vi nhi vi nữ khổ bôn ba, kim triêu phương thức trần trung huyễn, hàm tiếu liên bang thổ bích hà (五陋身成障垢多、爲兒爲女苦奔波、今朝方識塵中幻、含笑蓮邦吐碧荷, xấu xí thân hình tội chướng đa, làm thân người nữ khổ bôn ba, sáng nay mới biết trong trần huyễn, cười mĩm Liên Bang nở sen hoa).”
(蓮花 hay 蓮華, renge): hoa sen. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, người ta thường cho loại hoa sen mà có rễ (củ sen) là hoa sen, nhưng ở Ấn Độ còn có thêm một loại sen nước (thủy liên) khác nữa ngoài hai thứ trên, và khi nói đến hoa sen người ta thường ám chỉ loại sen nước này nhiều hơn. Tại Ấn Độ có nhiều loại hoa sen, nhưng trong kinh điển Phật Giáo có đề cập đến 5 loại. Đó là hoa sen trắng (s, p: puṇḍarīka, âm dịch là Phân Đà Lợi Ca [分陀利迦], 白蓮), hoa sen xanh (s: utpala, p: uppala, âm dịch là Ưu Bát La [優鉢羅], 青蓮), hoa sen hồng (s: padma, p: paduma, âm dịch là Bát Đầu Ma [鉢頭摩], 紅蓮), hoa sen vàng (s, p: kumuda, âm dịch là Câu Vật Đầu [拘物頭], 黃蓮), và loại hoa sen xanh khác (s, p: nīlotpala, 青蓮). Nhưng trên thực tế thì trừ loại hoa sen trắng (puṇḍarīka) ra, loại nào cũng có màu trắng và hồng cả. Từ ngàn xưa ở Ấn Độ người ta rất yêu chuộng loại hoa sen này. Trong đạo Bà La Môn có thần thoại cho rằng từ trong lỗ rún của thần Vishnu sinh ra hoa sen, trong hoa sen có Phạm Thiên là người sáng tạo ra vạn vật. Hoa sen vốn mọc trong bùn, nhưng trồi ra khỏi bùn để sống, không bị nhiễm mùi hôi tanh của bùn nhơ, mà còn có mùi thơm trong sạch, cho nên nó được ví như là Phật tâm vốn có cũng như chư Phật và Bồ Tát thanh tịnh. Một trong những kinh điển tiêu biểu của Đại Thừa nói về hoa sen là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka, 妙法蓮華經), ví diệu pháp của Phật như là hoa sen trắng lớn. Thế giới của Kinh Pháp Hoa là Liên Hoa Tạng Thế Giới (蓮華藏世界) hay nói cho đúng là Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (s: Kusumatalagarbha-vyūhālaṃkāra-lokadhātu-samudra, 蓮華藏莊嚴世界海). Cổ Côn Pháp Sư (古崑法師) nhà Thanh có câu thơ rằng: “Nhất thanh Phật hiệu vi vi tụng, thất bảo Liên Hoa đại đại khai (一聲佛號微微誦、七寶蓮花大大開, một tiếng niệm Phật nhỏ nhỏ tụng, hoa sen bảy báu nở lớn dần).” Hay như tại Cửu Phong Thiền Tự (九峰禪寺) ở Vĩnh Gia (永嘉), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối như sau: “Hoàng kim địa thượng bảo thọ trùng trùng tận thị tu hành giả chủng, bạch ngọc trì trung Liên Hoa đóa đóa vô phi niệm Phật nhân tài (黃金地上寶樹重重盡是修行者種、白玉池中蓮花朵朵無非念佛人栽, trên đất vàng ròng cây báu hàng hàng thảy do người tu hành trồng, trong hồ ngọc trắng hoa sen đóa đóa đều là người niệm Phật gieo).”
(五方蠻雷使者): tên gọi vị sứ giả bộ hạ của Lôi Tổ trong Lôi Bộ. Từ này thấy xuất hiện trong Cửu Thiên Ứng Nguyên Lôi Thanh Phổ Hóa Thiên Tôn Ngọc Xu Bảo Kinh (九天應元雷聲普化天尊玉樞寶經) của Đạo Giáo: “Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan, phát hiệu thi lịnh, tật như phong hỏa (九天雷公將軍、五方雷公將軍、八方雲雷將軍、五方蠻雷使者、雷部兵使者、莫賺判官、發號施令、疾如風火, Cửu Thiên Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Lôi Bộ Binh Sứ Giả, Mạc Trám Phán Quan ban hành hiệu lịnh, nhanh như gió lửa).” Hay trong Tử Vi Huyền Đô Lôi Đình Ngọc Kinh (紫微玄都雷霆玉經) cũng có đoạn rằng: “Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Tam Giới, chưởng ác Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân ty lãnh trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần, thị vi chiêu lôi hịch đình chi ty; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân, thị vi tiết độ lôi đình chi sứ; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên, thị vi nhiếp hạt lôi đình chi thần; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân, thị vi lôi đình phong vũ chi chủ; trung hữu Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện Chi Thần, trung hữu Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả, thật ty kỳ lịnh, dụng Tán Kì quyền (北極紫微大帝統禦三界、掌握五雷、天蓬君、天猷君、翊聖君、玄武君分司領治、天罡神、河魁神、是爲召雷檄霆之司、九天流金火鈴大將軍、天丁力士、六丁玉女、六甲將軍、是爲節度雷霆之使、九天嘯命風雷使者、雷令使者、火令大仙火伯、風令火令風伯、四目皓翁、蒼牙霹靂大仙、是爲攝轄雷霆之神、火伯風霆君、風火元明君、雷光元聖君、雨師丈人仙君、是爲雷霆風雨之主、中有三五邵陽雷公火車鐵面之神、中有負風猛吏銀牙耀目飆火律令大神、狼牙猛吏大判官、五雷飛捷使者、五方雷公將軍、八方雲雷大將、五方蠻雷使者、三界蠻雷使者、九社蠻雷使者、實司其令、用贊其權, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế thống lãnh Ba Cõi, chưởng quản Ngũ Lôi; Thiên Bồng Quân, Thiên Du Quân, Dực Thánh Quân, Huyền Võ Quân phân chia các ban mà thống trị; Thiên Cương Thần, Hà Khôi Thần là các thần quản lý việc kêu sấm gọi sét; Cửu Thiên Lưu Kim Hỏa Linh Đại Tướng Quân, Thiên Đinh Lực Sĩ, Lục Đinh Ngọc Nữ, Lục Giáp Tướng Quân là sứ điều chỉnh sấm sét; Cửu Thiên Khiếu Mạng Phong Lôi Sứ Giả, Lôi Lịnh Sứ Giả, Hỏa Lịnh Đại Tiên Hỏa Bá, Phong Lịnh Hỏa Lịnh Phong Bá, Tứ Mục Hạo Ông, Thương Nha Phích Lịch Đại Tiên là thần cai quản sấm sét; Hỏa Bá Phong Đình Quân, Phong Hỏa Nguyên Minh Quân, Lôi Quang Nguyên Thánh Quân, Vũ Sư Trượng Nhân Tiên Quân là chủ tể quản lý gió mưa, sấm sét; trong đó có Thần Tam Ngũ Thiệu Dương Lôi Công Hỏa Xa Thiết Diện, trong đó lại có Phụ Phong Mãnh Lại Ngân Nha Diệu Mục Tiên Hỏa Luật Lịnh Đại Thần, Lang Nha Mãnh Lại Đại Phán Quan, Ngũ Lôi Phi Tiệp Sứ Giả, Ngũ Phương Lôi Công Tướng Quân, Bát Phương Vân Lôi Đại Tướng, Ngũ Phương Man Lôi Sứ Giả, Tam Giới Man Lôi Sứ Giả, Cửu Xã Man Lôi Sứ Giả thật sự thi hành lịnh của Bắc Cực Tử Vi Đại Đế để tán dương quyền lực Người).”
(七珍): hay Thất Bảo (七寶), tức là 7 loại trân bảo quý giá của thế gian. Các kinh điển giải thích về 7 loại trân bảo này có khác nhau, như A Di Đà Kinh (阿彌陀經), Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 10, v.v., giải thích Thất Bảo là:
(1) Vàng;
(2) Bạc;
(3) Lưu Ly (瑠璃、琉璃), thuộc loại ngọc xanh;
(4) Pha Lê (頗梨), ý dịch là Thủy Tinh, chỉ loại Thủy Tinh màu đỏ, trắng, v.v.;
(5) Xa Cừ (車渠), trong các kinh điển thường gộp chung loại này với Mã Não (碼瑙), chỉ cho loại San Hô trắng;
(6) Xích Châu (赤珠, hạt châu đỏ), hay Xích Chơn Châu (赤眞珠);
(7) Mã Não, loại ngọc có màu xanh đậm.
Bên cạnh đó, Pháp Hoa Kinh (法華經) quyển 4 cho Thất Bảo là: Vàng, Bạc, Lưu Ly, Xa Cừ, Mã Não, Chơn Châu và Mân Côi (玫瑰). Như trong Di Đà Phật Minh (彌陀佛銘) của Lương Trầm Ước (梁沉約, ?-?) thời Nam Triều có câu: “Nguyện du bỉ quốc, thần kiều mộ tưởng, Thất Trân phi tiện, tam đạt tư ngưỡng (願遊彼國、晨翹暮想、七珍非羨、三達斯仰, nguyện rong chơi nước ấy, ngày trông đêm nhớ, bảy báu chẳng ham, ba lần đạt đến sự khát ngưỡng).” Hay trong Ngọc Thanh Hành (玉清行) của Liễu Bí (柳泌, ?-820) nhà Đường lại có câu: “Thất Trân phi mãn tòa, Cửu Dịch chước như tuyền (七珍飛滿座、九液酌如泉, Bảy Báu bay đầy tòa, Chín Dịch rót như suối).” Trong Tịnh Độ Tùy Học (淨土隨學) quyển hạ của Cổ Côn Pháp Sư (古崑法師) nhà Minh có câu: “Nhất thanh Phật hiệu vi vi tụng, Thất Bảo Liên Hoa đại đại khai (一聲佛號微微誦、七寶蓮花大大開, một danh hiệu Phật tụng nho nhỏ, hoa sen bảy báu lớn dần khai).”
(s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗): một trong 10 vị đệ tử lớn của đức Phật, còn gọi là Xá Lợi Phất Đa (舍利弗多), Xá Lợi Phất La (舍利弗羅), Xá Lợi Phất Đát La (舍利弗怛羅), Xá Lợi Phất Đa La (舍利弗多羅), Xà Lợi Phú Đa La (闍利富多羅), Xà Lợi Phất Đa La (闍利弗多羅); ý dịch là Thu Lộ Tử (鶖鷺子、秋露子), Cù Dục Tử (鴝鵒子、鸜鵒子), Thu Tử (鶖子); thường gọi là Xá Lợi Tử (舍利子), cựu dịch là Thân Tử (身子). Mẹ ông là con gái của một vị luận sư Bà La Môn ở Thành Vương Xá (s: Rājagṛha; p: Rājagaha, 王舍城) thuộc nước Già Đà (伽陀). Khi vừa mới sanh ra, con mắt ông giống như mắt con chim Xá Lợi, nên ông được đặt tên là Xá Lợi Phất (con của chim Xá Lợi). Hay ông có tên khác là Ưu Ba Để Sa (s: Upatiṣya, p: Upatīṣya, 優波底沙), Ưu Ba Đế Tu (優波), v.v.; ý dịch là Đại Quang (大光), được lấy theo tên cha. Theo Bản Hạnh Tập Kinh (本行集經) quyển 48, Phẩm Xá Lợi Mục Liên Nhân Duyên (舍利目連因緣品), từ nhỏ tướng mạo của Xá Lợi Phất đã đoan nghiêm; đến khi lớn lên, rèn luyện các kỹ năng, thông hiểu các bộ kinh Phệ Đà. Năm lên 16 tuổi, ông đã có thể hàng phục các luận nghị của người khác, mọi người đều quy phục ông. Thời niên thiếu, ông từng kết giao với Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana, p: Moggallāna, 目犍連) ở làng bên cạnh, thường đến tham dự những buổi tế lễ ngoài Thành Vương Xá, thấy mọi người vui chơi hỗn tạp, chợt cảm ngộ lẽ vô thường, bèn cắt bỏ râu tóc, theo xuất gia học đạo với một trong 6 vị thầy ngoại đạo là San Xà Da Tỳ La Chi Tử (s: Sañjayavairaṭṭiputra, 删闍耶毘羅胝子), chỉ trong 7 ngày đêm mà có thể thông suốt toàn bộ giáo nghĩa của vị này, hội chúng có 250 người đều tôn kính ông là bậc thượng thủ, song Xá Lợi Phất vẫn thâm cảm được rằng mình chưa được giải thoát. Lúc bấy giờ, đức Phật thành đạo không được bao lâu, hiện đang trú tại Tinh Xá Trúc Lâm (竹林精舍) ở Thành Vương Xá. Đệ tử Ngài là A Thuyết Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿說示, còn gọi là Tỳ Kheo Mã Thắng [馬勝比丘]) đắp y, cầm bình bát vào trong thành khất thực. Xá Lợi Phất thấy vị này oai nghi đoan chính, bước đi khoan thai, bèn đến hỏi xem thầy là ai và thực hành pháp môn gì ? A Thuyết Thị bèn lấy pháp nhân duyên do đức Phật thuyết giảng để chỉ cho Xá Lợi Phất, để hiểu được lý các pháp là vô ngã. Nghe xong, Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên, mỗi người thống lãnh 250 đệ tử, cùng đến Tinh Xá Trúc Lâm quy y với đức Phật. Theo Thập Nhị Du Kinh (十二遊經), sau khi quy y với đức Phật, ông thường tùy tùng theo Ngài, giúp giáo hóa mọi người, là bậc thượng thủ trong đại chúng. Ông là người thông minh xuất chúng, được tôn xưng là Trí Tuệ Đệ Nhất (Trí Tuệ Số Một). Lại căn cứ vào Chúng Hứa Ma Ha Đế Kinh (眾許摩訶帝經) quyển 11, 12, Hiền Ngu Kinh (賢愚經) quyển 10, Phẩm Tu Đạt Khởi Tinh Xá (須達起精舍品), v.v., Xá Lợi Phất tinh thông ngoại điển, từng dùng biện tài siêu tuyệt để hàng phục ngoại đạo Mắt Đỏ; hay sự việc trưởng giả Tu Đạt Đa (p: Sudatta, 須達) quy y theo đức Phật, phát tâm kiến tạo Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇洹精舍), v.v., cũng nhờ sự khuyến hóa tài tình và đầy trí tuệ của Xá Lợi Phất. Hơn nữa, theo Tứ Phần Luật (四分律) quyển 46, Thập Tụng Luật (十誦律) quyển 37, v.v., vào cuối đời của đức Phật, Đề Bà Đạt Đa (s, p: Devadatta, 提婆達多) tuyên xướng về 5 điều không đúng pháp, muốn phá hoại tăng đoàn, thống lãnh 500 Tỳ Kheo vào trong núi Già Da (伽耶); khi ấy Xá Lợi Phất cùng với Mục Kiền Liên đến ngọn núi này, khiến cho 500 Tỳ Kheo kia nhận ra sai lầm của mình, quay trở về với Phật. Suốt cả đời Xá Lợi Phất luôn được mọi người tôn kính, lại được đức Phật tán dương. Ông nhập diệt trước đức Phật, sau 7 ngày thì làm lễ Trà Tỳ (茶毘); y bát và di cốt của ông được an táng tại Kỳ Viên. Trưởng giả Tu Đạt Đa dựng tháp cho ông. Theo Phẩm Thí Dụ của Kinh Pháp Hoa cho biết rằng Xá Lợi Phất được đức Phật thọ ký cho rằng vào thời tương lai sẽ làm Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai (華光如來).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập