Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Cuộc sống ở thế giới này trở thành nguy hiểm không phải vì những kẻ xấu ác, mà bởi những con người vô cảm không làm bất cứ điều gì trước cái ác. (The world is a dangerous place to live; not because of the people who are evil, but because of the people who don't do anything about it.)Albert Einstein
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Sa Di »»
(s: Akṣhobhya-buddha, t: Saṅs-rgyas mi-ḥkhrugs-pa, 阿閦佛): gọi tắt là A Súc (阿閦), còn gọi là A Súc Tì Phật (阿閦鞞佛), A Sô Tì Da Phật (阿芻鞞耶佛), Ác Khất Sô Tỳ Dã Phật (噁乞蒭毘也佛); ý dịch là Bất Động Phật (不動佛), Vô Động Phật (無動佛), hay Vô Nộ Phật (無怒佛), Vô Sân Nhuế Phật (無瞋恚佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật ở 5 phương khác nhau; vị này thường ngự ở phương Đông. Theo Phẩm Phát Ý Thọ Tuệ (發意受慧) và Thiện Khoái (善快) của A Súc Phật Quốc Kinh (阿閦佛國經, Taishō Vol. 11, No. 313) quyển Thượng, vào thời quá khứ cách hơn Phật quốc độ về phương Đông có thế giới tên gọi là A Tỷ La Đề (s: Abhirati, 阿比羅提), đức Đại Mục Như Lai (大目如來) xuất hiện trong thế giới ấy, vì các Bồ Tát thuyết về hạnh Lục Độ Vô Cực (六度無極). Khi ấy có một vị Bồ Tát nhân khi nghe pháp bèn phát tâm vô thượng chánh chân; đức Đại Mục Như Lai thấy vậy rất hoan hỷ nên ban cho hiệu là A Súc. Bồ Tát A Súc thành Phật ở thế giới A Tỷ La Đề, cho đến hiện tại vẫn còn đang thuyết pháp tại quốc độ của Ngài. Hơn nữa, lại căn cứ vào Phẩm Hóa Thành Dụ (化城喩品) của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經, Taishō Vol. 9, No. 262) cho hay rằng khi chưa xuất gia, đức Đại Thông Trí Thắng Phật (大通智勝佛) có 16 vương tử, về sau tất cả đều xuất gia làm Sa Di; trong đó người con thứ nhất tên Trí Tích (智積), tức là A Súc, thành Phật tại nước Hoan Hỷ ở phương Đông. Bi Hoa Kinh (s: Karuṇā-puṇḍarīka-sūtra, 悲華經, Taishō Vol. 3, No. 157) quyển 4 có ghi rằng đức A Di Đà Phật (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀佛) trong thời quá khứ khi làm vua Vô Tránh Niệm (無諍念), có cả ngàn người con, trong đó người con thứ 9 tên Mật Tô (蜜蘇), tức là A Súc, thành Phật ở phương Đông, cõi nước tên là Diệu Lạc (妙樂). Mật Giáo xem A Súc Phật này là một trong 5 vị Phật của Kim Cang Giới (金剛界), tượng trưng cho Đại Viên Cảnh Trí (大圓境智), hay Kim Cang Trí (金剛智). Ngài ngự ở trung ương chánh Đông Nguyệt Luân trong Ngũ Giải Thoát Luân (五解脫輪), phía trước là Kim Cang Tát Đỏa (金剛薩埵), bên phải là Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩), bên trái là Kim Cang Ái Bồ Tát (金剛愛菩薩), phía sau là Kim Cang Hỷ Bồ Tát (金剛喜菩薩). Hình tượng của Ngài màu vàng kim, tay trái bắt ấn để trên bắp vế, tay phải buông xuống chạm đất, nên được gọi là A Súc Xúc Địa ấn (阿閦觸地印). Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛); chủng tử là hūṃ. Chơn ngôn là “án ác khất sô tỳ dã hồng (唵噁乞蒭毘也吽).” Thân Ngài màu xanh, như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn rằng: “Phụng thỉnh Đông phương A Súc Phật, kỳ thân thanh sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Hàng Ma Chử, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請東方阿閦佛、其身青色放光明、手印執持降魔杵、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Đông phương A Súc Phật, thân Ngài sắc xanh phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Chày Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Trong Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 lại dạy thêm rằng: “Cầu trường thọ thư A Súc Phật Chủng Trí tự (求長壽書阿閦佛種智字, nếu cầu sống lâu thì viết chữ Chủng Trí của A Súc Phật).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Kim Cang Kiên Cố Tự Tánh Thân A Súc Phật (南慕金剛堅固自性身阿閦佛, Kính Lễ Phật A Súc Thân Tự Tánh Kiên Cố Như Kim Cang).”
(正果): có hai nghĩa khác nhau:
(1) Chỉ cho sự chứng ngộ nhờ tu tập đúng chánh pháp; còn gọi chứng quả (證果). Sở dĩ gọi là chánh quả, vì đó là quả nhờ học Phật chứng đắc được; khác với ngoại đạo tu luyện mù lòa, sai lầm.
(2) Đặc biệt chỉ cho thân của hữu tình, là quả báo chánh thể cảm đắc nhờ nghiệp nhân quá khứ; còn gọi là chánh báo (正報). Như trong Lăng Nghiêm Kinh Yếu Giải (楞嚴經要解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 11, No. 270) quyển 2 có câu: “Chúng sanh nghiệp chủng thành tụ, hành nhân bất thành chánh quả, giai do bất tri nhị bổn thác loạn tu tập (眾生業種成聚、行人不成正果、皆由不知二本錯亂修習, chúng sanh giống nghiệp tích tụ, người hành trì không thành chánh quả, đều vì chẳng biết hai gốc rễ tu tập thác loạn).” Hay như trong Sa Di Luật Nghi Yếu Lược Thuật Nghĩa (沙彌律儀要略述義, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1119) lại có câu: “Dĩ thành chánh quả viết Thánh, linh siêu vạn vật viết nhân, mô phạm hậu học viết sư, Lục Hòa thanh tịnh viết Tăng (已成正果曰聖、靈超萬物曰人、模範後學曰師、六和清淨曰僧, đã thành chánh quả gọi là Thánh, linh ứng vượt qua vạn vật gọi là người, làm mô phạm cho học đồ đi sau gọi là thầy, sống Lục Hòa thanh tịnh gọi là Tăng).”
(鐘、鍾): chuông; tên một loại pháp khí được dùng trong các tự viện Phật Giáo để báo thì giờ, tập trung tăng chúng. Tại Ấn Độ, khi triệu tập tăng chúng, người ta thường đánh loại Kiền Chùy (s: ghaṇṭā, 揵椎) bằng gỗ. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 24 có ghi lại việc đức Phật dạy tôn giả a nan đánh Kiền Chùy để tập trung đại chúng: “Nhữ kim ư lộ địa tốc kích Kiền Chùy, sở dĩ nhiên giả ? Kim thất nguyệt thập ngũ nhật thị thọ tuế chi nhật (汝今於露地速擊揵椎、所以然者、今七月十五日是受歲之日, các ngươi nay ở nơi đất trống mau đánh Kiền Chùy, vì cớ sao vậy ? Vì hôm nay ngày 15 tháng 7 là ngày nhận thêm tuổi).” Chuông có hai loại chính: Phạn Chung (梵鐘) và Hoán Chung (喚鐘). (1) Phạn Chung, còn gọi là Đại Chung (大鐘, chuông lớn), Điếu Chung (釣鐘), Chàng Chung (撞鐘), Hồng Chung (洪鐘), Kình Chung (鯨鐘), Bồ Lao (蒲牢), Hoa Kình (華鯨), Hoa Chung (華鐘), Cự Chung (巨鐘), v.v.; thông thường cao khoảng 150 cm, đường kính khoảng 60 cm; được treo trên lầu chuông, dùng để triệu tập đại chúng, hay để báo thời khắc sáng tối. Phần trên của Phạn Chung có đầu rồng, được gọi là điếu thủ (釣手, tay câu). Phần bên dưới có hình hai tòa hoa sen tương đối, được gọi là bát diệp (八葉, tám cánh). Trong Thiền lâm, chuông này được dùng để thông báo thời gian Tọa Thiền vào đầu đêm, nên có tên là Định Chung (定鐘); hay để thông báo đại chúng vào Tăng Đường, được gọi là Nhập Đường Chung (入堂鐘). Về ngữ nghĩa Bồ Lao, Lý Thiện (李善, 630-689), học giả thời nhà Đường, có chú dẫn lời của Tiết Tông (薛綜, ?-243) nhà Ngô thời Tam Quốc rằng: “Hải trung hữu đại ngư viết Kình, hải biên hựu hữu thú danh Bồ Lao; Bồ Lao tố úy Kình, Kình ngư kích Bồ Lao, triếp dại minh; phàm chung dục linh thanh đại giả, cố tác Bồ Lao ư thượng, sở dĩ chàng chi giả vi Kình ngư (海中有大魚曰鯨、海邊又有獸名蒲牢、蒲牢素畏鯨、鯨魚擊蒲牢、輒大鳴、凡鐘欲令聲大者、故作蒲牢於上、所以撞之者爲鯨魚, trong biển có con cá lớn gọi là Kình, ven biển lại có con thú tên là Bồ Lao; Bồ Lao chẳng sợ cá Kình, cá Kình đánh Bồ Lao, thường tạo ra tiếng vang lớn; hễ chuông muốn có âm thanh lớn thì nên tạc hình con Bồ Lao lên trên, vì vậy vật để đánh chuông là cá Kình).” Cho nên, đùi đánh chuông thường được khắc hình con cá Kình. Theo Thăng Am Ngoại Tập (升庵外集) quyển 95 của Dương Thận (楊愼, 1488-1559) nhà Minh cho biết rằng tục truyền rồng sinh ra chín con, con thứ ba tên là Bồ Lao, hình như con rồng nhưng nhỏ; và nay chính là hình con rồng trên đầu chuông. (2) Hoán Chung, còn gọi là Bán Chung (半鐘, chuông bằng một nữa), Tiểu Chung (小鐘, chuông nhỏ); thông thường cao khoảng 60 đến 80 cm, dùng để thông báo bắt đầu tiến hành pháp hội, v.v., nên được gọi là Hành Sự Chung (行事鐘). Tại Trung Quốc, từ xưa đã có chế tạo chuông bằng đồng, nhưng không rõ nguồn gốc. Trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 28 cho biết rằng vào năm 566 (Thiên Hòa [天和] thứ 5) nhà Bắc Chu, có bài Chu Võ Đế Nhị Giáo Chung Minh (周武帝二敎鐘銘); Đường Thái Tông Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh (唐太宗大興善寺鐘銘); Đường Đông Cung Hoàng Thái Tử Tây Minh Tự Chung Minh (唐東宮皇太子西明寺鐘銘), v.v. Theo Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, Truyện Trí Hưng (智興傳), vào năm 609 (Đại Nghiệp [大業] thứ 5) nhà Tùy, trong khi trú tại Thiền Định Tự (禪定寺) ở Kinh Sư, Trí Hưng đã từng giữ chức Thời Chung. Theo thông tin trên, việc tạo lập Phạn Chung từ thời Bắc Chu trở đi đã bắt đầu thịnh hành. Ngoài ra, chuông ở Hàn Sơn Tự (寒山寺), Tô Châu (蘇州), nhờ bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊) của thi nhân Trương Kế (張繼, ?-779) nhà Đường mà trở nên nổi tiếng. Căn cứ vào tác phẩm Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Ký (入唐求法巡禮記) quyển 3 của Viên Nhân (圓仁, Ennin, 794-864), vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường cầu pháp, tại Ngũ Đài Sơn (五臺山) có hang lầu chuông với chuông vàng, lầu báu, là nơi Bồ Tát Văn Thù thường thị hiện. Tại Nhật Bản, hiện còn lưu lại một số chuông được đưa từ Trung Quốc vào, như chuông ở Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) vùng Phong Tiền (豐前, Buzen); ở Ba Thượng Cung (波上宮, Nami-no-uegū) vùng Lưu Cầu (琉球, Ryūkyū); ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), v.v.; chuông hiện tồn tối cổ được đúc vào năm 698 (Văn Võ Thiên Hoàng [文武天皇] thứ 2), và bảo lưu tại Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Kyoto. Chuông đối với việc tu hành có công đức rất lớn và đóng vài trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống tâm linh của tín đồ Phật Giáo. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, phần Chuông, có giải thích rằng: “Đại Chung, tùng lâm hiệu lịnh tư thỉ dã, hiểu kích tắc phá trường dạ cảnh thùy miên, mộ kích tắc giác hôn cù sơ minh muội (大鍾、叢林號令資始也、曉擊則破長夜警睡眠、慕擊則覺昏衢疏冥昧, chuông lớn là vật khởi đầu hiệu lịnh trong tùng lâm; đánh buổi sáng thì phá tan sự đêm dài, đánh thức ngủ say; đánh buổi tối thì làm tỉnh thức con đường mê muội, tối tăm).” Trong Sa Di Luật Nghi Tỳ Ni Nhật Dụng Hợp Tham (沙彌律儀毗尼日用合參, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1120) lại dạy rằng: “Hồng chung chấn hưởng giác quần mê, thanh biến thập phương vô lượng độ, hàm thức quần sanh phổ văn tri, bạt trừ chúng sanh trường dạ khổ, Lục Thức thường hôn chung dạ khổ, vô minh bị phú thức mê tình, tĩnh dạ văn chung khai giác ngộ, di thần tịnh sát đắc thần thông (洪鐘震響覺群迷、聲遍十方無量土、含識群生普聞知、拔除眾生長夜苦、六識常昏終夜苦、無明被覆識迷情、靜夜聞鐘開覺悟、怡神淨剎得神通, Hồng chung vang vọng tỉnh quần mê, tiếng khắp mười phương vô lượng cõi, nhận thức quần sanh khắp nghe biết, đoạn trừ chúng sanh đêm dài khổ, Sáu Thức thường mờ suốt đêm khổ, vô minh che lấp cõi mê tình, đêm lắng nghe chuông bày giác ngộ, hân hoan trong sạch chứng thần thông).” Lại nữa, trong Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1513) quyển 4 có dẫn lời dạy của Kinh Tăng Nhất A Hàm rằng: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tinh đắc đình chỉ (若打鐘時、一切惡道諸苦、幷得停止, nếu khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ của đường ác, đều được dừng lại).” Trong Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (付法藏因緣傳, Taishō Vol. 50, No. 2058) quyển 5 có ghi lại câu chuyện quốc vương nước Nguyệt Chi (月支) là Chiên Đàn Kế Nặc Tra (栴檀罽昵吒) cùng giao chiến với nước An Tức (安息), sát hại 9 ức người. Do vì nhân ác đó, nhà vua sau khi chết bị đọa làm thân con cá có ngàn cái đầu, vòng kiếm quay quanh thân chém đứt từng đầu, nhưng rồi lại sanh ra đầu khác; đau đớn vô cùng, không thể nào kể xiết. Tuy nhiên, mỗi khi nghe tiếng chuông thì vòng kiếm kia dừng lại; cho nên nhà vua cầu xin vị La Hán thường xuyên đánh chuông. Vị này thương xót, đánh chuông liên tục trong vòng 7 ngày thì không còn chịu khổ nữa. Trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, phần Đường Kinh Sư Đại Trang Nghiêm Tự Thích Trí Hưng Truyện (唐京師大莊嚴寺釋智興傳) có đề cập đến câu chuyện người anh của sư trên đường cùng với nhà vua đến Bành Thành (彭城) thì đột nhiên qua đời giữa đường. Người này về báo mộng cho vợ biết rằng mình đã chết, nay đọa xuống Địa Ngục, chịu khổ báo vô cùng, nên bảo rằng: “Lại dĩ kim nguyệt sơ nhật mông Thiền Định Tự tăng Trí Hưng minh chung phát thanh hưởng chấn Địa Ngục, đồng thọ khổ giả nhất thời giải thoát (賴以今月初日蒙禪定寺僧智興鳴鍾發聲響振地獄、同受苦者一時解脫, vào ngày mồng một tháng này, nhờ tăng sĩ Trí Hưng ở Thiền Định Tự đánh chuông phát ra tiếng vang chấn động Địa Ngục, khiến cho người chịu khổ nhất thời được giải thoát).” Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 1 ghi lại câu chuyện vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅) nhận lời thỉnh cầu của con rồng ác, kiến lập chùa chiền, đánh chuông và nhờ đó mà tâm sân hận của rồng được tiêu tan. Vì tầm quan trọng của tiếng chuông như vậy, trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) trích dẫn lời dạy của Tạp Thí Dụ Kinh (雜譬喻經) về thái độ của người nghe chuông: “Sở tại văn chung thanh, ngọa giả tất tu khởi, hiệp chưởng phát thiện tâm, hiền thánh giai hoan hỷ (所在聞鐘聲、臥者必須起、合掌發善心、賢聖皆歡喜, nơi mình nghe tiếng chuông, người nằm phải nên dậy, chấp tay phát thiện tâm, hiền thánh đều hoan hỷ).” Cũng điển tịch này có dẫn lời của cổ đức rằng: “Văn chung ngọa bất khởi, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, hậu thế đọa xà thân (聞鐘臥不起、護法善神嗔、現前減福慧、後世墮蛇身, nghe chuông nằm không dậy, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, đời sau đọa rắn thân).” Trong Thiền môn có các bài kệ nguyện chuông rất phổ biến như: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽暗悉皆聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, nghiệp trần trong sạch chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác).”; hay “Văn chung thanh phiền não khinh, trí huệ trưởng bồ đề sinh, ly Địa Ngục xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật độ chúng sinh (聞鐘聲煩惱輕、智慧長菩提生、離地獄出火坑、願成佛度眾生, nghe tiếng chuông phiền não tan, trí huệ lớn bồ đề sanh, lìa Địa Ngục ra hỏa than, nguyện thành Phật độ chúng sanh).” Theo nghiên cứu cho thấy rằng trong bộ Toàn Đường Thi (全唐詩) cũng như Toàn Đường Thi Bổ Biên (全唐詩補編), có gần 1100 câu thơ về tiếng chuông, về Phạn Chung có 300 câu, cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng chuông chùa như thế nào. Xin giới thiệu một số tác phẩm liên quan đến tiếng chuông như sau. Trong bài Trường Thọ Tự Xán Công Viện Tân Trứu Tỉnh (長壽寺粲公院新甃井) của Lý Kì (李頎, 690-751) có đoạn: “Tăng phòng lai trú cửu, lộ tỉnh mỗi đồng quan, bạch thạch bảo tân trứu, thương đài y cựu lan, không bình uyển chuyển hạ, trường cảnh lộc lô bàn, cảnh giới nhân tâm tịnh, tuyền nguyên kiến để hàn, chung minh thời quán đảnh, đối thử nhật nhàn an (僧房來往久、露井每同觀、白石抱新甃、蒼苔依舊欄、空瓶宛轉下、長綆轆轤盤、境界因心淨、泉源見底寒、鐘鳴時灌頂、對此日閒安, tăng phòng đến đây ở, giếng nước ngày mỗi xem, đá trắng che mặt giếng, rêu xanh vẫn lan cùng, gàu nước buông thong thả, dây dài theo trục xoay, cảnh giới theo tâm lắng, suối nguồn tận đáy trong, chuông ngân dài quán đảnh, đối diện ngày an nhàn).” Trương Kế có làm bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊): “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (月落烏啼霜滿天、江楓漁火對愁眠、姑蘇城外寒山寺、夜半鐘聲到客船, trăng tà chiếc quạ kêu sương, lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ, thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông Chùa Hàn San).” Như trong Vãn Đường Chung Thanh (晚唐鐘聲) của Phó Đạo Bân (傅道彬) có nêu một đoạn trong bài thơ Du Long Môn Phụng Tiên Tự (遊龍門奉先寺) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770): “Dĩ tùng Chiêu Đề du, cánh túc Chiêu Đề cảnh, âm hác sanh hư lại, nguyệt lâm tán thanh ảnh, thiên khuyết tượng vĩ bức, vân ngọa y thường lãnh, dục giác văn thần chung, linh nhân phát thâm tỉnh (已從招提遊、更宿招提境、陰壑生虛籟、月林散清影、天闕象緯逼、雲臥衣裳冷、欲覺聞晨鐘、令人發深省, từ độ thăm Chiêu Đề, lại luyến cảnh Chiêu Đề, hang tối vang tiếng vọng, rừng trăng bóng tỏ mờ, cổng trời bóng voi hiện, mây nằm áo lạnh băng, muốn dậy nghe chuông sớm, khiến người tỉnh thức sâu).” Trong bài Kinh Thiếu Lâm Tinh Xá Ký Đô Ấp Thân Hữu (經少林精舍寄都邑親友) của Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792) có câu: “Xuất hi thính vạn lại, nhập lâm trạc u tuyền, minh chung sanh đạo tâm, mộ khánh không vân yên (出巘聽萬籟、入林濯幽泉、鳴鐘生道心、暮磬空雲煙, ra hang vạn dây vướng, vào rừng rửa suối thiêng, chuông ngân sanh đạo tâm, khánh chiều mây khói quyện).” Lô Luân (盧綸, 739-799) có làm bài Thù Quý Đoan Công Dã Tự Bệnh Cư Kiến Ký (酬李端公野寺病居見寄): “Dã tự chung hôn sơn chánh âm, loạn đằng cao trúc thủy thanh thâm, điền phu tựu hướng hoàn y thảo, dã trĩ kinh phi bất quá lâm, trai mộc tạm tư đồng tĩnh thất, thanh luy dĩ giác trợ Thiền tâm, tịch mịch nhật trường thùy vấn tật, liệu quân duy thủ cổ phương tầm (野寺鐘昏山正陰、亂藤高竹水聲深、田夫就餉還依草、野雉驚飛不過林、齋沐暫思同靜室、清羸已覺助禪心、寂寞日長誰問疾、料君惟取古方尋, chùa hoang chuông chiều núi tỏa râm, dây leo trúc bám tiếng nước trầm, nông phu cất bước theo lối cỏ, gà đồng kinh hoảng bay qua rừng, chay tịnh ưu tư cùng tịnh thất, gầy xanh mới rõ ấy Thiền tâm, vắng lặng tháng ngày ai hỏi bệnh, khuyên người thôi chớ nhọc công tìm).” Hay trong bài Du Vân Tế Tự (遊雲際寺) của Chương Hiếu Tiêu (章孝標) có câu: “Vân lãnh phù danh khứ, chung chàng đại mộng tỉnh, mang mang sơn hạ sự, mãn nhãn tống lưu bình (雲領浮名去、鐘撞大夢醒、茫茫山下事、滿眼送流萍, mây núi phù danh bỏ, chuông ngân đại mộng tỉnh, mênh mang chuyện đời mặc, trước mắt bèo dạt trôi).” Trong bài Tặng Thiên Khanh Tự Thần Lượng Thượng Nhân (贈天卿寺神亮上人) của Triệu Hỗ (趙嘏, 806-853) cũng có đề cập đến tiếng chuông: “Ngũ khán xuân tận thử giang phần, hoa tự phiêu linh nhật tự huân, không hữu từ bi tùy vật niệm, dĩ vô tung tích tại nhân quần, nghênh thu nhật sắc diêm tiền kiến, nhập dạ chung thanh trúc ngoại văn, tiếu chỉ bạch liên tâm tự đắc, thế gian phiền não thị phù vân (五看春盡此江濆、花自飄零日自曛、空有慈悲隨物念、已無蹤跡在人群、迎秋日色簷前見、入夜鐘聲竹外聞、笑指白蓮心自得、世間煩惱是浮雲, năm bận đón xuân nơi bến sông, ngày nắng chói chan hoa phiêu bồng, không tâm từ bi theo vật nhớ, đã chẳng dấu tích chốn nhân quần, đón thu ngày mới trước thềm thấy, đêm về chuông vọng trúc ngoài vang, cười chỉ trắng sen lòng tự đắc, thế gian phiền não ấy phù vân).” Hay như trong bài Quá Hương Tích Tự (過香積寺) của Vương Duy (王維, ?-761) cũng vậy: “Bất tri Hương Tích Tự, sổ lí nhập vân phong, cổ mộc vô nhân kính, thâm sơn hà xứ chung, tuyền thanh yến nguy thạch, nhật sắc lãnh thanh tùng, bạc mộ không đàm khúc, an Thiền chế độc long (不知香積寺、數里入雲峰、古木無人逕、深山何處鐘、泉聲咽危石、日色冷青松、薄暮空潭曲、安禪制毒龍, nào hay Hương Tích Tự, mấy dặm trong mây rừng, cây xưa không người bước, núi sâu chuông chốn nào, tiếng suối ngâm lòng đá, ngày lên lạnh tùng xanh, chiều buông trên hồ vắng, tọa Thiền chế độc long).” Tại Tây Hồ, Hàng Châu có 2 ngôi danh lam là Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và Linh Ẩn Tự (靈隱寺). Ở Tịnh Từ Tự có một đại hồng chung rất nổi tiếng, nơi nhà bia an trí chuông có bút tích của vua Khang Hy với dòng chữ: “Nam Bình Vãn Chung (南屏晚鐘, Chuông Chiều Nam Bình).” Thi sĩ Trương Đại (張岱, ?-?) nhà Đường có làm bài thơ để diễn tả sự xuất thần nhập hóa của tiếng chuông chùa này như sau: “Dạ khí ổng Nam Bình, khinh phong bạc như chỉ, chung thanh xuất thượng phương, dạ độ không giang thủy (夜氣滃南屏、輕風薄如紙、鐘聲出上方、夜渡空江水, màn đêm trùm khắp Nam Bình, gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh, tiếng chuông vút tận trời xanh, buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng).” Sau này dân gian vẫn có câu: “Ngọc Bình thanh chướng mộ yên phi, cam điện chung thanh lạc thúy vi (玉屏青嶂暮煙飛、紺殿鐘聲落翠微, Ngọc Bình mây khói chiều lặng bay, điện báu chuông chùa rụng sương chầy).” Về phía Việt Nam, cũng có khá nhiều bài thơ nói về tiếng chuông, như trong bài Cảnh Chùa Đọi của Nguyễn Khuyến (阮勸, 1835-1909) có đoạn: “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, sư cụ nằm chung với khói mây, chuông trưa vẳng tiếng người không biết, trâu thả sườn non ngủ gốc cây.” Trong bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩) của Hòa Thượng Thạch Liêm (石濂, 1633-1702) cũng có đoạn diễn tả như sau: “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong, trúc li thảo kính phù lam yểm, thạch hác hà lâu đảo ảnh không (綠柳垂垂隠梵宮、鐘聲迢遞滿河風、竹籬草徑浮嵐掩、石壑霞樓倒影空, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông, lối cỏ bờ trúc mây khói phủ, hang đá lầu chiều bóng nghiêng lồng).” Tục ngữ dân gian Việt Nam thường có câu: “Đánh tan tục lụy hồi chuông sớm, gõ nát trần tâm tiếng mõ trưa”; hay “Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Sương, mịt mù khói toả ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.” Hòa Thượng Giác Tiên (1880-1936), Tổ khai sáng Chùa Trúc Lâm (竹林寺), Huế, có câu thơ: “Tuần diêm thanh khánh sao minh nguyệt, nhiễu thọ sơ chung khấu bích thiên (巡簷清磬敲明月、繞樹疏鐘扣碧天, tiếng khánh quanh nhà lay trăng sáng, cùng cây chuông sớm gõ trời xanh).” Cố Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), nguyên trú trì và khai sơn Hồng Ân Ni Tự (鴻恩尼寺) tại Huế, cũng có lưu lại bài thơ ca ngợi về nét Thiền vị của chùa Trúc Lâm như sau: “Bước đến Trúc Lâm luống chạnh lòng, chuông chùa tiếng dội khắp rừng thông, trông lên bảo tháp mây quang đãng, ngó xuống ao sen cá vẫy vùng, cảnh tịnh soi tâm tâm cũng tịnh, nước trong trăng chiếu bóng thường trong, cảnh này nếu được đem thêu vẽ, tỏa rạng ngàn năm nét Đại Hùng.”
(藥山惟儼, Yakusan Igen, 745-828): xuất thân vùng Phong Châu (絳州, thuộc Huyện Tân Phong, Tỉnh Sơn Tây), sau dời đến Huyện Tín Phong (信豐), Nam Khang (南康, Tỉnh Giang Tây), họ là Hàn (韓). Năm lên 17 tuổi, ông xuất gia với Huệ Chiếu (慧照) ở Tây Sơn (西山), Triều Dương (潮陽, Tỉnh Quảng Đông), rồi đến năm thứ 8 (773) niên hiệu Đại Lịch (大曆), lúc 29 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới với Hy Tháo (希澡) ở Hành Nhạc Tự (衡岳寺), và được đại ngộ dưới trướng của Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷), được ấn chứng cho và kế thừa dòng pháp của vị này. Ông theo hầu hạ Hy Thiên suốt 13 năm, rồi sau đến trú tại Dược Sơn (藥山, tức Thược Dược Sơn [芍藥山], thuộc Tỉnh Hồ Nam), Lễ Châu (澧州), có khoảng bốn, năm mươi người đến tham học. Đến ngày mồng 6 tháng 12 năm thứ 2 (828) niên hiệu Thái Hòa (太和), ông thị tịch, hưởng thọ 84 tuổi. Ông được ban cho thụy hiệu là Hoằng Đạo Đại Sư (弘道大師). Đệ tử của ông có Vân Nham Đàm Thịnh (雲巖曇晟), Hoa Đình Đức Thành (華亭德誠), Bại Thọ Tuệ Tỉnh (稗樹慧省), Đạo Ngô Viên Trí (道吾圓智), Cao Sa Di (高沙彌), Bách Nhan Minh Triết (百顔明哲), Kính Nguyên Sơn Quang Mật (涇源山光虙), Tuyên Châu Lạc Hà (宣州落霞), Lý Cao (李翺), v.v. Duy Nghiễm không để lại thư tịch nào, nhưng ông rất tinh thông kinh luận, xưa kia vốn nghiêm thủ giới luật, và gia phong của ông rất kỳ đặc.
(敎信, Kyōshin, ?-866): vị Tăng chuyên tu niệm Phật sống vào đầu thời kỳ Bình An, húy là Giáo Tín (敎信), hiệu là Giáo Tín Sa Di (敎信沙彌), Hạ Cổ Giáo Tín (賀古敎信), A Di Đà Hoàn (阿彌陀丸). Ông vốn có vợ con ở vùng Hạ Cổ (賀古, Kako) thuộc vùng Bá Ma (播磨, Harima), sống cuộc đời chuyên làm thuê mướn cho người trong làng, hay khuân vác hành lý cho lữ khách. Ông thường xướng niệm Phật và khuyên mọi người trong làng tu theo mình. Với tư cách là bậc Thánh niệm Phật, chính cách sống của ông đã đem đến ảnh hưởng cho Thân Loan (親鸞, Shinran) cũng như Nhất Biến (一遍, Ippen), đặc biệt trường hợp của Thân Loan thì hình thành tư tưởng Phi Tăng Phi Tục.
(戒名, Kaimyō): trong Phật Giáo, người xuất gia thọ trì giới luật, thệ nguyện suốt đời không phạm đến các giới điều ấy, và dấu ấn chứng tỏ đã được truyền trao giới pháp chính là Giới Danh. Đối với hàng tu sĩ xuất gia từ Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼) cho đến Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼); và đối với hàng cư sĩ tại gia thì Giới Danh cũng giống nhau mà thôi. Tại Nhật Bản, có truyền thống sau khi qua đời, người chết được ban cho Giới Danh như Thích …, … Viện, … Cư Sĩ (Đại Tỷ), v.v., cùng với tục danh; như Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) có Giới Danh là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (東照大權現安國院殿德蓮社崇譽道和大居士) hay An Quốc Viện Điện Đức Liên Xã Sùng Dự Đạo Hòa Đại Cư Sĩ (安國院殿德蓮社崇譽道和大居士); Võ Tướng Võ Điền Tín Huyền (武田信玄, Takeda Shingen) có Giới Danh là Pháp Tánh Viện Cơ Sơn Tín Huyền (法性院機山信玄). Trường hợp tu sĩ xuất gia, Giới Danh được gọi là Pháp Danh (法名, Hōmyō). Pháp Danh của Tăng Ni có thêm vào hiệu Phòng như Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空), Phật Pháp Phòng Đạo Nguyên (佛法房道元), Thiện Tín Phòng Thân Loan (善信房親鸞), v.v. Cho nên, hiệu Phòng ấy trở thành thông xưng, và cũng có trường hợp như vậy mà được thăng cách thành hiệu Thượng Nhân (上人, Shōnin), như Pháp Nhiên Thượng Nhân (法然上人, Hōnen Shōnin), v.v. Đối với Phật Giáo Nhật Bản, Giới Danh thường được ban cho cư sĩ tại gia khi qua đời, và từ đó có tập quán khắc Giới Danh này vào bia mộ cũng như Bài Vị (牌位).
(s: Mahīśāsaka, p: Mahiṃsāsaka, 化地部): âm dịch là Di Sa Tắc Bộ (彌沙塞部), còn gọi là Chánh Địa Bộ (正地部), Giáo Địa Bộ (敎地部), Đại Bất Khả Khí Bộ (大不可棄部), tên gọi của một trong 20 bộ phái của Tiểu Thừa. Tương truyền sau khi đức Phật diệt độ khoảng 300 năm, bộ phái này phân ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部) của hệ Thượng Tọa Bộ (上座部). Về tên gọi của bộ phái này, trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論) có ghi rằng: “Người chủ của bộ phái này là quốc vương, nhà vua thống nhiếp đất nước, giáo hóa hàng thứ dân trên đất, cho nên có tên là Hóa Địa. Nhà vua bỏ ngôi vua xuất gia, rộng tuyên Phật pháp, từ đó lấy tên là Hóa Địa Bộ. Pháp sư Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nói rằng: 'Chánh Địa Bộ vốn là thầy nhà vua, muốn chỉnh đốn đất nước, bèn bỏ ngôi vua để hoằng pháp, cho nên có tên là Chánh Địa'”. Về giáo nghĩa của Hóa Địa Bộ, Dị Bộ Tông Luân Luận chia làm hai phần là Bổn Tông Đồng Nghĩa (本宗同義) và Mạt Tông Dị Nghĩa (末宗異義); trong đó, Bổn Tông Đồng Nghĩa rất giống Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部), cho rằng không có quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại cũng như pháp vô vi. Từ đó, phái này lập ra 9 loại vô vi gồm Trạch Diệt (擇滅), Phi Trạch Diệt (非擇滅), Hư Không (虛空), Bất Động (不動), Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), và Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如). Họ chủ trương thấy đạo nhất thời, hiện quán lý của Tứ Thánh Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-arya-sacca, 四聖諦) và cho rằng 5 thức có năng lực tạp nhiễm. Đối với chủ trương về 4 quả Sa Môn, họ cho rằng Quả Dự Lưu (s: srotāpatti-phala, p: sotāpatti-phala, 預流果) còn trở lui nữa, chỉ có Quả A La Hán (s: arhant-phala, p: arahant-phala, 阿羅漢果) thì bất thối. Trong khi đó, Mạt Tông Dị Nghĩa thì gần với học thuyết của Tát Bà Đa Bộ (s: Sarvāstivāda, 薩婆多部), chủ trương thật có quá khứ, tương lai. Từ Ân (慈恩) và Hiền Thủ (賢首) lấy chủ trương của Bổn Tông Đồng Nghĩa để lập nên Pháp Vô Khứ Lai Tông (法無去來宗), và lấy Mạt Tông Dị Nghĩa để hình thành Pháp Hữu Ngã Vô Tông (法有我無宗). Luật của Hóa Địa Bộ hành trì là Sa Di Tắc Bộ Hòa Hê Ngũ Phần Luật (彌沙塞部和醯五分律), 30 quyển.
(s: upādhyāya, p: upajjhāya, 和尚、和上): chỉ bậc xuất gia đức độ cao cả; còn gọi là Hòa Xà (和闍), Hòa Xã (和社), Cốt Xã (鶻社), Ô Xã (烏社), Ô Ba Đà Da (鄔波馱耶), Ô Ba Địa Da (摀波地耶), Ưu Ba Đà Ha (優婆陀訶), Úc Ba Đệ Da Dạ (郁波第耶夜), Phật Đà (佛佗). Ý dịch là Thân Giáo Sư (親敎師), Lực Sanh (力生), Cận Tụng (近誦), Y Học (依學), Đại Chúng Chi Sư (大眾之師). Hòa Thượng là bậc thầy mô phạm của người thọ giới, cho nên các tông Hoa Nghiêm, Thiên Thai, Tịnh Độ, v.v., đều gọi là Giới Hòa Thượng (戒). Về sau, Hòa Thượng trở thành tôn xưng của trò đối với bậc thầy. Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch là Lực Sanh, ý chỉ rằng đệ tử nương vào thầy mà sanh đạo lực, nhưng nghĩa này không được lưu truyền rộng rãi. Trong giai vị Tăng Quan của Phật Giáo Nhật Bản có chức vị Hòa Thượng, Đại Hòa Thượng. Đặc biệt, vị trú trì của một chùa nào đó cũng được gọi là Oshō-sama (和尚様, Hòa Thượng Dạng), hay Oshō-san (和尚さん) mang nghĩa thông tục. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 13 cho biết rằng: “Vân hà Sa Di, Sa Di Ni xuất gia thọ giới pháp ? Bạch Y lai dục cầu xuất gia, ưng cầu nhị sư, nhất Hòa Thượng, nhất A Xà Lê; Hòa Thượng như phụ, A Xà Lê như mẫu; dĩ khí bổn sanh phụ mẫu, đương cầu xuất gia phụ mẫu. Trước Ca Sa, thế trừ tu phát, ưng lưỡng thủ tróc Hòa Thượng lưỡng túc. Hà dĩ tróc túc ? Thiên Trúc pháp dĩ tróc túc vi đệ nhất cung kính cúng dường (云何沙彌、沙彌尼出家受戒法、白衣來欲求出家、應求二師、一和上、一阿闍梨、和上如父、阿闍梨如母、以棄本生父母、當求出家父母、著袈裟、剃除鬚髮、應兩手捉和上兩足、何以捉足、天竺法以捉足爲第一恭敬供養, Thế nào là Sa Di, Sa Di Ni xuất gia thọ giới pháp ? Hàng Bạch Y đến muốn cầu xuát gia, nên cầu hai vị thầy: một là Hòa Thượng, một là A Xà Lê; Hòa Thượng như cha, A Xà Lê như mẹ; để bỏ đi cha mẹ sanh minh ra, nên cầu cha mẹ xuất gia. Mang y Ca Sa, cạo bỏ râu tóc, nên lấy hai tay nắm chặt hai chân của Hòa Thượng. Vì sao vậy ? Pháp tắc của Ấn Độ cho rằng nắm chặt chân là cung kính cúng dường số một).”
(或庵[菴]師體, Wakuan Shitai, 1108-1179): vị tăng của Phái Dương Kì thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, họ là La (羅), xuất thân Hoàng Nham (黃巖, Tỉnh Triết Giang), Đơn Kheo (丹丘). Năm 15 tuổi, ông bỏ nhà đi theo hầu Thủ Uy (守威) ở Diệu Trí Viện (妙智院). Năm 20 tuổi, ông thọ giới Sa Di, sau đó gặp Bàn Am Kế Thành (蹣庵繼成). Rồi ông theo học với Thử Am Cảnh Nguyên (此庵景元), được đại ngộ và kế thừa dòng pháp của vị này. Ông đã từng sống tại Tiêu Sơn (焦山) thuộc Phủ Trấn Giang (鎭江府, Tỉnh Giang Tô). Vào ngày mồng 1 tháng 8 năm thứ 6 (1179) niên hiệu Thuần Hy (淳熙), ông nhuốm bệnh nhẹ, rồi đến ngày mồng 4 thì viên tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 52 hạ lạp.
(慧光, Ekō, 468-537): vị tăng sống dưới thời Bắc Ngụy, sơ tổ của Nam Đạo Phái thuộc Địa Luận Tông Trung Quốc, người đời thường gọi là Quang Thống Luật Sư (光統律師), người vùng Trường Lô (長蘆), Định Châu (定州, Hà Bắc [河北]), họ Dương (楊). Năm 13 tuổi, ông theo cha lên Lạc Dương (洛陽), theo xuất gia với Phật Đà Phiến Đa (佛陀扇多) và được người đương thời gọi là Thánh Sa Di. Ban đầu ông học Luật bộ, sau thọ Cụ Túc giới và 4 năm sau thuyết giảng Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律). Vào năm đầu (508) niên hiệu Vĩnh Bình (永平) thời Bắc Ngụy, Lặc Na Ma Đề (勒那摩提) cùng với Bồ Đề Lưu Chi (菩提流支) dịch bộ Thập Địa Kinh Luận (十地經論), ông thông qua cả 2 dịch bản, tự đọc lại Phạn bản, ngộ được yếu chỉ của kinh, nhân đó hưng khởi Địa Luận Tông. Bên cạnh đó, ông còn soạn ra Tứ Phần Luật Sớ (四分律疏), rồi viết chú sớ cho các kinh như Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Duy Ma, Thập Địa, Địa Trì, v.v. Đến cuối thời Bắc Ngụy, ông đến nhậm chức Tăng Đô ở Lạc Dương. Về sau, ông phụng chiếu chỉ vào đất Nghiệp, nhậm thêm chức Quốc Thống, nên từ đó có tên Quang Thống Luật Sư. Khi lâm chung, nơi Thiên cung hiện ra điềm lành, ông thị tịch ở Đại Giác Tự (大覺寺), hưởng thọ 70 tuổi. Trước tác của ông để lại có Huyền Tông Luận (玄宗論), Đại Thừa Nghĩa Luật Chương (大乘義律章), Nhân Vương Thất Giới (仁王七疏), Di Giáo Kinh Sớ (遺敎經疏), Hoa Nghiêm Kinh Sớ (華嚴經疏) 10 quyển, Thập Địa Luận Sớ (十地論疏).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.65 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập