Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Kỳ tích sẽ xuất hiện khi chúng ta cố gắng trong mọi hoàn cảnh.Sưu tầm
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Quế Nguyệt »»

(南呂): có hai nghĩa chính:
(1) Tên gọi âm thứ 5 trong 6 âm thanh thuộc về Âm của 12 luật âm, tương đương với âm Bàn Thiệp (盤涉, banshiki) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Như trong Chu Lễ (周禮), chương Xuân Quan (春官), Đại Ty Nhạc (大司樂) có câu: “Tấu Hoàng Chung, ca Đại Lữ, tấu Cô Tẩy, ca Nam Lữ, tấu Di Tắc, ca Tiểu Lữ (奏黃鐘、歌大呂、奏姑洗、歌南呂、奏夷則、歌小呂, tấu điệu Hoàng Chung, ca điệu Đại Lữ, tấu điệu Cô Tẩy, ca điệu Nam Lữ, tấu điệu Di Tắc, ca điệu Tiểu Lữ).”
(2) Tên gọi khác của tháng 8 Âm Lịch. Như trong Bách Trượng Thanh Quy Chứng Nghĩa Ký (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 8 có giải thích rằng: “Bát nguyệt kiến Dậu viết Tác Ngạc, hựu viết Nam Lữ, hoặc danh Thanh Thu, hựu xưng Tráng Nguyệt, Quế Nguyệt đẳng (八月建酉曰作噩、又曰南呂、或名清秋、又稱壯月、桂月等, tháng Tám kiến Dậu, gọi là Tác Ngạc, hay gọi là Nam Lữ, hoặc có tên là Thanh Thu, còn gọi là Tráng Nguyệt, Quế Nguyệt, v.v.).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 cho biết thêm rằng: “Dậu vi Nam Lữ, bát nguyệt chi thần danh Dậu; Dậu giả thu súc chi nghĩa; thử nguyệt thời vật giai súc tiểu nhi thành dã, cố vị chi Dậu (酉爲南呂、八月之辰名酉、酉者緧縮之義、此月時物皆縮小而成也、故謂之酉, Dậu là Nam Lữ, chi của tháng Tám là Dậu; Dậu có nghĩa là thu nhỏ lại; vào tháng này muôn vật đều thu nhỏ lại mà thành, nên gọi nó là Dậu).” Trong Chiết Nghi Luận (折疑論, Taishō Vol. 52, No. 2118) quyển 4 có câu: “Khấu Thương huyền dĩ chiêu Nam Lữ bát nguyệt chi lịnh, lương phong hốt chí, thảo mộc thành thật (扣商絃以召南呂八月之令、涼風忽至、草木成實, gõ dây Thương để mời lịnh tháng Tám Nam Lữ, gió mát chợt đến, cỏ cây kết trái).” Hay trong Kim Cang Sớ Khoa Thích (金剛疏科釋, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 466) cũng có câu: “Thời Ứng Vĩnh thập cửu niên long tập Nhâm Thìn Nam Lữ hạ cán cát nhật ngụ Long Hoa Phạn Phương cẩn thư (時應永十九年龍集壬辰南呂下澣吉日寓龍華梵芳謹書, lúc bấy giờ là ngày tốt hạ tuần tháng 8 năm Nhâm Thìn [1412], niên hiệu Ứng Vĩnh thứ 19, Phạn Phương ở Long Hoa kính ghi).”
(桂影): chỉ bóng mặt trăng, ánh trăng. Theo Dậu Dương Tạp Trở (酉陽雜俎) quyển 1, chương Thiên Chỉ (天咫) của tiểu thuyết gia Đoàn Thành Thức (段成式, 803-863) nhà Đường cho biết rằng tương truyền trên mặt trăng có một cây Nguyệt Quế (月桂) cao 500 trượng. Dưới thời nhà Hán có một người tên là Ngô Cương (吳剛), say mê về tiên đạo mà không lo chuyên tâm học tập; vì vậy Thiên Đế nổi giận, đem chàng ta giam tại cung trăng, bắt chàng phải chặt cây quế và bảo rằng nếu như chặt đỗ cây quế đó thì có thể lấy được thuốc tiên. Ngô Cương bắt đầu chặt cây quế, nhưng sau khi chặt xong một nhát đao thì vết chặt tự nhiên liền lại. Ngày qua ngày, chàng trai tận lực đốn cây quế, nhưng không thành. Cho nên, Ngô Cương vẫn còn làm công việc này, vì cây quế vẫn chưa ngã và người đời sau thấy hình tượng chàng thanh niên kia chặt cây quế không ngừng nghỉ. Vì vậy, hình ảnh cây quế luôn gắn liền với mặt trăng qua một số từ ngữ như quế phách (桂魄), quế điện (桂殿), Quế Nguyệt (桂月), v.v. Như trong bài thơ Sơn Trung Dạ Tọa Ký Cố Lí Hữu Sinh (山中夜坐寄故里友生) của Lý Hàm Dụng (李咸用, ?-?) nhà Đường có câu: “Trùng thanh xúc xúc thôi hương mộng, quế ảnh cao cao quải lữ tình (蟲聲促促催鄉夢、桂影高高掛旅情, tiếng trùng thúc giục cố hương mộng, ánh trăng cao vút chở tình xa).” Trong bài từ Chúc Anh Đài Cận (祝英台近) của Lưu Cơ (劉基, 1311-1375) nhà Minh có đoạn: “Thúy yên thu, châu lộ hạ, tinh Hán cọng tiêu sái, quế ảnh bồi hồi, bạch tuyết xán diêm ngõa (翠煙收、珠露下、星漢共瀟灑、桂影徘徊、白雪粲簷瓦, khói biếc thu, sương châu rụng, ông sao cùng thong thả, bóng trăng bồi hồi, tuyết trắng cười ngói mái nhà).” Trong Sách Pháp Hiệu Nghĩa Biện Phúng Tụng Văn (索法號義辯諷誦文, Taishō Vol. 85, No. 2857) có câu: “Liên hoa ái nhi quế ảnh trầm huy, phương thọ điêu nhi lan tư bãi úc (蓮花靉而桂影沈暉、芳樹彫而蘭姿罷郁, hoa sen tối mà ánh trăng thầm sáng, cây thơm tàn mà dáng lan rực rỡ).”
có tên gọi khác như Trọng Thu (仲秋), Trung Thu (中秋), Thu Bán (秋半), Thu Cao (秋高), Quất Xuân (橘春), Thanh Thu (清秋), Chánh Thu (正秋), Quế Thu (桂秋), Hoạch Nguyệt (獲月), Tráng Nguyệt (壯月), Quế Nguyệt (桂月), Diệp Nguyệt (葉月), Thu Phong Nguyệt (秋風月), Dậu Nguyệt (酉月), Nguyệt Kiến Nguyệt (月見月), Hồng Nhiễm Nguyệt (紅染月), Nam Lữ (南呂), Trọng Thương (仲商), Chá Nguyệt (柘月), Nhạn Lai Nguyệt (雁來月), Trung Luật (中律), Tứ Âm Nguyệt (四陰月), Sảng Nguyệt (爽月), Đại Thanh Nguyệt (大清月), Trúc Tiểu Xuân (竹小春), Quán Nguyệt (觀月), Kết Xuân (桔春), Cử Nguyệt (舉月). Một số câu hay cho tháng Tám như châu lộ ngưng bạch (珠露凝白, sương châu đọng thành màu trắng), quế nhụy sanh hương (桂蕊生香, nhụy hoa quế ngát hương), lộ doanh tiên chưởng (露盈仙掌, sương đọng đầy bàn tay tiên), quế trán thiềm cung (桂綻蟾宮, quế khắp cung trăng), lộ châu trích lãnh (露珠滴冷, giọt sương ngọc lạnh băng), Quế Nguyệt phù hàn (桂月浮寒, trăng quế trôi nỗi lạnh ngắt), thiềm quang chánh mãn (蟾光正滿, ánh sáng trăng tròn đầy), nhạn hoành độ ảnh (雁橫度影, nhạn bay ngang qua còn lưu bóng), thiềm thố trừng quang (蟾兔澄光, ánh trăng sáng tỏ). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như thiền hiệu cổ mộc (蟬號古木, ve khóc cây cổ), yến biệt điêu lương (燕別雕梁, yến giã biệt xà nhà chạm trỗ).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập