Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Pháp Lạp »»
(夏臘, 夏臈): còn gọi là Tăng Lạp (僧臘), Pháp Lạp (法臘), Pháp Tuế (法歲), Pháp Hạ (法夏), Giới Lạp (戒臘), Tọa Lạp (坐臘), Tọa Hạ Pháp Lạp (坐夏法臘); chỉ cho số năm An Cư Kiết Hạ của vị Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘) sau khi thọ giới Cụ Túc. Mỗi năm từ ngày 16 tháng 4 cho đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, trong vòng 3 tháng, các tòng lâm có tổ chức An Cư Kiết Hạ, lấy ngày cuối cùng của thời gian ấy làm ngày kết thúc của một năm; tức là ngày thọ thêm 1 tuổi. Cho nên, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), sau khi thọ giới xong, vào dịp kết thúc kỳ An Cư Kiết Hạ, sẽ được tăng thêm 1 tuổi nữa. Tùy theo tuổi Hạ ít nhiều mà phân làm Thượng Lạp (上臘), Trung Lạp (中臘) và Hạ Lạp (下臘), để phân định cao thấp, tôn ty thượng hạ. Người có tuổi Hạ cao nhất được gọi là Nhất Lạp (一臘), Cực Lạp (極臘), Lạp Mãn (臘滿). Trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 21 có đoạn: “Sở trú giả Pháp Lạp, cố cổ chi cao tăng, viết Thế Thọ, hựu viết Pháp Lạp; cái bất câu tuế niên, nhi dĩ sơ nhập thọ trì giới phẩm, tam nguyệt An Cư, giới thể vô khuy vi nhất lạp, do dĩ lạp bất dĩ niên, cố hữu niên cao nhi lạp thiểu giả, hữu đồng niên nhi kì thọ giả (所住者法臘、故古之高僧、曰世壽、又曰法臘、蓋不拘歲年、而以初入受持戒品、三月安居、戒體無虧爲一臘、由以臘不以年、故有年高而臘少者、有童年而耆壽者, Pháp Lạp của người cư trú, chư vị cao tăng xưa gọi là Thế Thọ, hay còn gọi là Pháp Lạp; vì không kể tuổi đời, mà lấy việc mới vào thọ trì giới phẩm, ba tháng An Cư, giới thể không bị thiếu là một Lạp, do vì lấy Hạ Lạp mà không lấy tuổi đời; cho nên có người tuổi đời cao mà Hạ Lạp ít, có người tuổi đời ít mà tuổi thọ cao).” Trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ lại giải thích rõ rằng: “Hạ Lạp, tức Thích thị Pháp Tuế dã; phàm tự trưởng ấu, tất vấn, Hạ Lạp đa giả vi trưởng (夏臘、卽釋氏法歲也、凡序長幻、必問、夏臘多者爲長, Hạ Lạp là Pháp Tuế nhà Phật; phàm muốn biết thứ tự lớn nhỏ, cần phải hỏi, Hạ Lạp nhiều là lớn).” Hay trong Báo Ân Luận (報恩論, 卍 Xuzangjing Vol. 62, No. 1205) quyển Thượng có đề cập rằng: “Phàm xuất gia nhị chúng, Đông Hạ nhập Lan Nhã giảng học, Xuân Thu quy gia dưỡng phụ mẫu, cố tăng gia tự xỉ xưng Hạ Lạp, bất xưng niên (凡出家二眾、冬夏入蘭若講學、春秋歸家養父母、故僧家序齒稱夏臘、不稱年, phàm hai chúng xuất gia, mùa Đông và Hạ thì vào chùa tu học, đến mùa Xuân và Thu thì về nhà phụng dưỡng cha mẹ; nên tuổi tác của tăng sĩ được gọi là Hạ Lạp, không gọi là năm [tuổi đời]).” Trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, q.16, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 16, phần Đường Giang Châu Hưng Quả Tự Thần Thấu Truyện (唐江州興果寺神湊傳) cũng có đoạn: “Nguyên Hòa thập nhị niên cửu nguyệt cấu tật, nhị thập lục nhật nghiễm nhiên tọa chung vu tự, thập nguyệt thập cửu nhật môn nhân phụng toàn thân biếm vu tự Tây đạo Bắc phụ Nhạn Môn phần tả, nhược tăng Thuyên táng cận Quách Văn chi mộ dã, xuân thu thất thập tứ, Hạ lạp ngũ thập nhất (元和十二年九月遘疾、二十六日儼然坐終于寺、十月十九日門人奉全身窆于寺西道北祔雁門墳左、若僧詮葬近郭文之墓也、春秋七十四、夏臘五十一, vào tháng 9 năm thứ 12 [817] niên hiệu Nguyên Hòa, ông nhuốm bệnh, đến ngày 26 thì nghiễm nhiên ngồi thị tịch tại chùa; vào ngày 19 tháng 10, môn nhân đem toàn thân của ông an táng ở phía Tây chùa, sau hợp táng ở bên trái đồi Nhạn Môn, giống như vị tăng Đạo Thuyên an táng gần mộ của Quách Văn vậy; ông hưởng thọ 74 tuổi đời và 51 Hạ lạp).”
(虛谷希陵, Hikoku Kiryō, 1247-1322): vị Thiền Tăng của Phái Dương Kì (楊岐) và Phá Am (破庵) thuộc Lâm Tế Tông, hiệu là Hư Cốc (虛谷), tự là Tây Bạch (西白), xuất thân vùng Nghĩa Ô (義烏), Vụ Châu (婺州, Tỉnh Triết Giang), họ là Hà (何). Năm 19 tuổi, ông xuất gia rồi thọ Cụ Túc Giới ở Đông Dương Tư Thọ Viện (東陽資壽院). Ông đã từng đến tham yết Hư Chu Viễn (虛舟遠) ở Song Lâm Tự (雙林寺), rồi Đông Tẩu Trọng Dĩnh (東叟仲頴). Sau đó ông kế thừa dòng pháp của Tuyết Nham Tổ Khâm (雪巖祖欽), đến năm thứ 3 (1316) niên hiệu Diên Hựu (延祐), ông đến ở tại Kính Sơn, Hàng Châu. Ông được mời vào cung nội, rồi được Thế Tổ ban cho hiệu là Phật Giám Thiền Sư (佛鑑禪師), sau đó lại được ban tặng những danh hiệu khác như Đại Viên (大圓), Huệ Chiếu (慧照), Đại Biện (大辯). Đến ngày 12 tháng 4 năm thứ 2 niện hiệu Chí Trị (至治), ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi đời và 57 Pháp Lạp. Tương truyền ông có trước tác bộ Ngữ Lục, Bộc Nham Tập (瀑巖集). Ngu Tập (虞集) soạn bài minh cho tháp của ông.
(明極楚俊, Minki Soshun, 1262-1336): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, vị tổ đời thứ 24 của Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), vị tổ đời thứ 23 của Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), vị tổ đời thứ 13 của Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji), Tổ của Phái Minh Cực (明極派), húy Sở Tuấn (楚俊), đạo hiệu Minh Cực (明極), thụy hiệu Phật Nhật Diệm Huệ Thiền Sư (佛日燄慧禪師); xuất thân Phủ Khánh Nguyên (慶元府), Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang), họ Hoàng (黃). Năm lên 12, ông theo xuất gia với Trúc Song (竹窻) ở Phủ Khánh Nguyên. Sau đó, ông đến tham Thiền với Hoành Xuyên Như Củng (横川如珙) ở Dục Vương Sơn (育王山) và trình bày chỗ sở ngộ của mình cho vị này. Tiếp theo, ông lại theo làm môn hạ của Hổ Nham Tịnh Phục (虎巖淨伏) ở Linh Ẩn Tự (靈隱寺), quên ăn uống mà chỉ chuyên tham yếu chỉ Thiền, nên cuối cùng thì được nối dòng pháp của vị này. Sau ông rời khỏi nơi đây mà đến Thiên Đồng (天童), theo hầu Chỉ Hoằng Đạo Giám (止弘道鑑). Về sau, ông cũng đã từng đến sống ở hai chùa Thoại Nham (瑞巖) và Phổ Tuệ (普慧), và chủ yếu là hoạt động giáo hóa ở Song Lâm Tự (雙林寺) thuộc vùng Vụ Châu (婺州, Tỉnh Triết Giang). Vào năm 1329, thể theo lời cung thỉnh của Đại Hữu Minh Tông (大友明宗), ông cùng với nhóm Trúc Tiên Phạn Tiên (竺仙梵僊) sang Nhật. Ông được Tướng Quân Bắc Điều Cao Thời (北條高時, Hōjō Takatoki) thỉnh đến trú tại Kiến Trường Tự vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura). Sau khi chính quyền Mạc Phủ bị diệt vong, ông được Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) quy y theo, và ông chuyển đến sống qua các chùa như Nam Thiền Tự, Kiến Nhân Tự vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro). Sau ông khai sáng ra Quảng Nghiêm Tự (廣嚴寺, Kōgan-ji) ở vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]). Về sau, ông trở về sống an dưỡng tuổi già ở Thiếu Lâm Viện (少林院) thuộc Nam Thiền Tự. Đến ngày 27 tháng 9 năm thứ 3 niên hiệu Kiến Võ (建武), ông thị tịch ở tại phương trượng của Kiến Nhân Tự, hưởng thọ 75 tuổi đời và 63 Pháp Lạp. Trước tác của ông có Minh Cực Sở Tuấn Hòa Thượng Ngữ Lục (明極楚俊和尚語錄), Thương Hải Dư Ba (滄海余波), Mộng Song Minh Cực Xướng Hòa Thiên (夢窻明極唱和篇), v.v. Đàm Ngạc (曇噩) soạn bài Minh Cực Tuấn Đại Hòa Thượng Tháp Minh (明極俊大和尚塔銘).
(寂室元光, Jakushitsu Genkō, 1290-1367): vị Thiền Tăng của Phái Đại Giác (大覺派) thuộc Lâm Tế Tông, xuất thân vùng Cao Điền (高田), Mỹ Tác (美作, Mimasaka, thuộc Okayama-ken [岡山縣]), đạo hiệu Thiết Thuyền (鉄船), Tịch Thất (寂室), thụy hiệu Viên Ứng Thiền Sư (圓應禪師); họ là Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara). Năm lên 13 tuổi, ông xuất gia, rồi theo hầu Vô Vi Chiêu Nguyên (無爲昭元) ở Tam Thánh Tự (三聖寺) thuộc vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, Kyoto-fu [京都府]), sau đó thì thọ Cụ Túc Giới. Năm 16 tuổi, ông đi theo hầu Ước Ông Đức Kiệm (約翁德儉) ở Thiền Hưng Tự (禪興寺) thuộc vùng Tương Mô (相模, Sagami, Kanagawa-ken [神奈川縣]), đến các chùa như Kiến Nhân (建仁), Kiến Trường (建長), Nam Thiền (南禪). Vào năm thứ 2 (1320) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), ông cùng với Khả Ông Tông Nhiên (可翁宗然), Độn Am Tuấn Đẳng (鈍庵俊等) sang nhà Nguyên cầu pháp. Tại đó ông đã từng đến tham yết Tông Phong Minh Bổn (宗峰明本) ở Thiên Mục Sơn (天目山), rồi kế đến một số bậc Thiền Tăng nổi tiếng đương thời như Nguyên Tẩu Hành Đoan (元叟行端), Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Thanh Chuyết Chánh Trừng (清拙正澄), Linh Thạch Như Chi (靈石如芝), Tuyệt Học Thế Thành (絕學世誠), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (斷崖了義), v.v., rồi sau đó trở về nước. Vào năm đầu (1334) niên hiệu Kiến Võ (建武), có người cư sĩ họ Bình ở vùng Bị Hậu (僃後, Bingo, thuộc Okayama-ken) xây dựng nên Vĩnh Đức Tự (永德寺) rồi thỉnh ông đến đây trú trì. Sau đó ông lánh xa thế tục mà sống ẩn cư suốt trong vòng 25 năm, và rồi vào năm thứ 2 (1351) niên hiệu Quán Ứng (觀應), ông lại đến sống ở Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) thuộc vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), cũng như Vãng Sanh Tự (徃生寺) ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Đến năm đầu (1361) niên hiệu Khang Nguyên (康元), thể theo lời thỉnh cầu của vị Quốc Chủ vùng Cận Giang là Tá Tá Mộc Thị Lại (佐々木氏賴, Sasaki Ujiyori), ông đến làm Tổ khai sơn của Vĩnh Nguyên Tự (永源寺, Eigen-ji). Khi ấy tương truyền rằng đồ chúng của ông đến cầu pháp lên đến hơn 2000 người. Vào ngày mồng 1 tháng 9 năm thứ 6 niên hiệu Trinh Trị (貞治), ông thị tịch, hưởng thọ 78 tuổi đời và 63 Pháp Lạp. Vào năm 1395, ông được ban thụy hiệu là Viên Ứng Thiền Sư. Trước tác của ông có bộ Vĩnh Nguyên Tịch Thất Hòa Thượng Ngữ Lục (永源寂室和尚語錄) 2 quyển.
(宗峰妙超, Shūhō Myōchō, 1282-1337): vị Thiền Tăng của Phái Đại Ứng (大應派) thuộc Lâm Tế Tông, vị Tổ khai sáng Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji) và Phái Đại Đức Tự (大德寺派), người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), húy là Diệu Siêu (妙超, Myōchō), thường được gọi là Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師, Daitō Kokushi), đạo hiệu là Tông Phong (宗峰, Shūhō), và thụy hiệu là Hưng Thiền Đại Đăng Quốc Sư (興禪大燈國師), Cao Chiếu Chánh Đăng Quốc Sư (高照正燈國師), Đại Từ Vân Khuông Chơn Quốc Sư (大慈雲匡眞國師); họ là Kỷ (紀). Năm lên 11 tuổi, ông theo xuất gia với Luật Sư Giới Tín (戒信) ở Thư Tả Sơn Viên Giáo Tự (冩書山圓敎寺) và học về Thiên Thai giáo học. Sau đó ông đến tham vấn Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日) ở Vạn Thọ Tự (萬壽寺, Manju-ji) thuộc vùng Liêm Thương. Vào năm thứ 3 (1305) niên hiệu Gia Nguyên (嘉元), nhân khi Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明) từ vùng Trúc Tiền (筑前, Chikuzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]) lên kinh đô và sống ở Thao Quang Am (韜光庵), ông đến đó tham vấn, kế đến ông đi theo hầu Nam Phố lên Vạn Thọ Tự, rồi đến Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), hết mình chuyên tâm nghiên cứu và cuối cùng thì liễu ngộ được yếu chỉ, nên được Am Phố ấn khả cho, lúc ấy ông 26 tuổi. Đến năm 1308, Nam Phố qua đời thì ông trở về Kinh Đô, rồi sống ẩn cư ở Vân Cư Tự (雲居寺) trong vòng khoảng 20 năm. Đến năm đầu (1226) niên hiệu Gia Lịch (嘉曆), ông đến Tử Dã (紫野, Murasakino, thuộc Jokyo-ku [上京區], Kyoto-fu [京都府]), dựng thảo am mà sống. Sau đó, một số các bậc vua chúa, công khanh như Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō), Xích Tùng Tắc Thôn (赤松則村, Akamatsu Norimura), v.v., quy y theo, nhờ đó ông xây dựng thành ngôi chùa lấy tên là Long Bảo Sơn Đại Đức Tự (龍寶山大德寺), và thỉnh ông làm vị Tổ khai sơn chùa này. Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇, Hanazono Jōkō) cũng nhân nghe đạo phong của ông, mới triệu thỉnh ông đến để hỏi pháp, rồi ban cho ông hiệu là Hưng Thiền Đại Đăng Quốc Sư. Từ đó, Đại Đức Tự được xếp ngang hàng với Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji). Về sau, thể theo lời thỉnh cầu của vị quan ở Thái Tể Phủ là Đại Hữu Lại Thượng (大友賴尚), ông chuyển đến ở tại Sùng Phước Tự (崇福寺, Sūfuku-ji), nhưng chẳng được bao lâu thì ông lại trở về kinh đô sống ở Đại Đức Tự. Vào ngày 23 tháng 12 năm thứ 3 niên hiệu Diên Nguyên (延元), ông thị tịch, hưởng thọ 56 tuổi đời và 34 Pháp Lạp. Các trước tác của ông để lại có Đại Đăng Quốc Sư Ngữ Lục (大燈國師語錄) 3 quyển, Pháp Ngữ (法語), Bích Nham Tập Hạ Ngữ (碧巖集下語) 1 quyển, v.v. Pháp từ của ông có Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄), Triệt Ông Nghĩa Hanh (徹翁義亨), Hải Ngạn Liễu Nghĩa (海岸了義), Hổ Khê Đạo Nhâm (虎溪道壬), v.v. Vào năm thứ 3 (1686) niên hiệu Trinh Hưởng (貞享), Linh Nguyên Thiên Hoàng (靈元天皇, Reigen Tennō) ban tặng thêm cho ông thụy hiệu là Đại Từ Vân Khuông Chơn Quốc Sư.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập