Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Nếu muốn có những điều chưa từng có, bạn phải làm những việc chưa từng làm.Sưu tầm
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Phải làm rất nhiều việc tốt để có được danh thơm tiếng tốt, nhưng chỉ một việc xấu sẽ hủy hoại tất cả. (It takes many good deeds to build a good reputation, and only one bad one to lose it.)Benjamin Franklin
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Phần hương »»
(寶篆): có hai nghĩa chính. (1) Chỉ cho dấu ấn của vua Nghiêu tương truyền do chim phụng hoàng trao; vì văn khắc trên con dấu như chữ Triện, nên có tên gọi như vậy. Về sau, từ này được dùng tượng trưng cho sách đồ lục (圖籙), tức sách mệnh của thiên thần ban cho. Như trong bài tựa của Càn Nguyên Điện Tụng (乾元殿頌) do Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường sáng tác có đoạn: “Linh hào mật phát, bát phương chiêu Đại Hữu chi hòa; bảo triện tiềm khai, Lục Hợp khải Đồng Nhân chi hội (靈爻密發、八方昭大有之和、寶篆潛開、六合啟同人之會, quẻ Hào mật phát, tám phương bày Đại Hữu hài hòa; ấn bàu thầm khai, Lục Hợp mở Đồng Nhân tụ hội).” (2) Từ mỹ xưng của hương thơm, vì khi đốt, khói quyện tỏa hình dáng như chữ Triện. Như trong bài Ký Ngọc Sơn Thi (寄玉山詩) của Trần Cơ (陳基, 1314-1370) nhà Nguyên có câu: “Bảo triện Phần hương lưu thùy áp, thải tiên hàng mặc tả lai cầm (寶篆焚香留睡鴨、綵箋行墨寫來禽, triện báu hương xông vịt ngái ngủ, giấy tiên mực vẽ chim bay về).” Hay trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) quyển 1, phần Duyên Khởi Văn (緣起文), có đoạn: “Hương phần bảo triện, đằng ngũ sắc chi vân hà; chúc trán kim liên, xán nhất thiên chi tinh đẩu; pháp nhạc tấu vô sanh chi khúc, Phạm âm diễn tối thượng chi tông (香焚寶篆、騰五色之雲霞、燭綻金蓮、燦一天之星斗、法樂奏無生之曲、梵音演最上之宗, hương xông triện báu, vọt năm sắc ấy mây lành; nến gắn sen vàng, rực một trời muôn sao sáng; pháp nhạc tấu vô sanh điệu khúc, Phạm âm diễn tối thượng tông phong).”
(鞠躬): thể hiện dáng cúi khom mình cung kính, cẩn thận. Như trong (百丈清規證義記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1244) quyển 7, phần Đệ Tam Thỉnh Sư (第三請師), có câu: “Hợp chưởng cúc cung, trường quỳ, niêm hương tam biện (合掌鞠躬、長跪、拈香三瓣, chấp tay cúi khom mình, quỳ xuống, dâng hương ba nén).” Hay trong bài thơ Qua Bộ Trở Phong (瓜步阻風) của Khổng Võ Trọng (孔武仲, ?-?) nhà Tống lại có câu: “Tạc nhật Phần hương yết thánh mẫu, thanh sơn cúc cung như phụ nỗ (昨日焚香謁聖母、青山鞠躬如負弩, hôm qua đốt hương yết thánh mẫu, núi xanh cúi mình như vác nỏ).” Hoặc trong Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) quyển 15, phần Độc Tụng Pháp (讀誦法), cũng có đoạn rằng: “Đệ tử chi pháp, nhược lão nhược thiếu, đáo bỉ sư sở, hợp chưởng cúc cung (弟子之法、若老若少、到彼師所、合掌鞠躬, phép của người đệ tử, dù già dù trẻ, khi đến chỗ thầy, chấp tay cúi mình).”
(玄): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Trong Dịch Kinh (易經), chương Khôn (坤), có câu: “Thiên huyền nhi địa hoàng (天玄而地黃, trời đen mà đất vàng).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Thiên sắc huyền, địa sắc hoàng (天色玄、地色黃, trời màu đen huyền, đất màu vàng).” Về sau, từ huyền được dùng để chỉ cho trời. (2) Chỉ cho phương Bắc, thuộc về hướng Bắc. (3) Thâm áo, huyền diệu. Như trong Lão Tử (老子) có câu: “Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn (玄之又玄、眾妙之門, thâm áo lại càng thâm áo, cửa của các mầu nhiệm).” Lão Tử còn cho “huyền chi hựu huyền” là đạo (道); nhân đó sau này tư tưởng này trở thành học thuyết của Đạo gia. Hay trong tác phẩm Ngũ Quân Vịnh (五君詠), phần Hướng Thường Thị (向常侍), của Nhan Duyên Chi (顏延之, 384-456) nhà Tống thời Nam Triều, lại có đoạn: “Thám đạo háo uyên huyền, quán thư bỉ chương cú (探道好淵玄、觀書鄙章句, tìm đạo thích thâm áo, xem sách ghét câu chữ).” (4) Chỉ đạo lý thâm áo, huyền diệu. (5) Các triết học gia cổ đại Trung Quốc dùng từ này để chỉ cho bản thể của vũ trụ. Như trong tác phẩm Thái Huyền (太玄), phần Ly (攡), của Dương Hùng (揚雄, 53-18 ttl.) nhà Hán, có đoạn: “Huyền giả, u ly vạn loại nhi bất kiến hình giả dã (玄者、幽攡萬類而不見形者也, huyền [bản thể vũ trụ] nghĩa là trùm khắp muôn loài mà không thấy hình vậy).”
(金爐): lò vàng dùng để đốt giấy tiền vàng bạc khi dân chúng đến tham bái. Tạo hình bên ngoài Kim Lô ở Miếu Thành Hoàng (城隍廟) lấy màu hồng làm chính. Trên đỉnh lò có tòa nhà lục giác ba tầng: tầng thứ nhất lên đến đỉnh lò, mỗi góc đều có hình con rồng bay; tầng thứ hai lên đến đỉnh lò, mỗi góc có hình con chim phụng bay; tầng thứ ba, mỗi góc đều có hình hoa. Kim Lô và Hương Lô (香爐, lò hương) hoàn toàn khác nhau về chức năng. Lò Hương chủ yếu để cắm hương. Lò Hương cỡ lớn thì có điêu khắc hình con rồng trên đó và được đúc bằng đồng. Trong khi đó, Kim Lô chủ yếu dùng để đốt các loại giấy tiền vàng mã và hầu hết mỗi đền miếu đều có. Loại Kim Lô ở các đền miếu được chế tạo bằng gốm sứ. Như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn: “Giới Định chơn hương, phần khí xung thiên thượng, thí chủ kiền thành, nhiệt tại kim lô phóng, khoảnh khắc nhân uân, tức biến mãn thập phương, tích nhật Da Du, miễn nạn trừ tai chướng (戒定眞香、焚氣衝天上、施主虔誠、爇在金爐放、頃刻氛氤、卽遍滿十方、昔日耶輸、免難除災障, Giới Định chơn hương, khí đốt xông trời đất, thí chủ lòng thành, hơi nóng trong lò tỏa, khoảnh khắc hòa hài, tức cùng khắp mười phương, xưa kia Da Du, hết nạn trừ tai chướng).” Hay trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) lại có đoạn: “Thần minh chi sum vệ, tuyên Phật Đảnh chi bí thuyên, tường yên tiêu cổ triện ư kim lô, bảo diệm thổ Đàm Hoa ư ngọc chúc (神明之森衛、宣佛頂之秘詮、祥煙銷古篆於金爐、寶燄吐曇花於玉燭, thần minh ấy hộ vệ, tuyên Phật Đảnh bao bí ngữ, mây lành nung triện cổ nơi lò vàng, lửa báu tuôn hoa Đàm nơi nến ngọc).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ, phần Tống Thích Ngộ Ân (宋釋晤恩) có đoạn rằng: “Ung Hy tam niên bát nguyệt, mộng ủng nạp Sa Môn, chấp kim lô Phần hương, tam nhiễu kỳ thất, tự ngôn Tổ sư quán đảnh, lai thử tương nghênh, mộng giác do văn dị hương, diện Tây hiệp chưởng nhi hóa (雍熙三年八月、夢擁衲沙門、執金爐焚香、三遶其室、自言祖師灌頂、來此相迎、夢覺猶聞異香、面西合掌而化, vào tháng 8 niên hiệu Ung Hy thứ 3 [986], Ngộ Ân mơ thấy vị Sa Môn ôm y bá nạp, tay cầm lò vàng xông hương, ba lần nhiễu quanh thất của ông, tự bảo là Tổ sư quán đảnh, đến đây nghinh đón, khi tỉnh mộng mà vẫn nghe có mùi hương lạ, ông mặt hướng về phương Tây chấp tay mà đi).”
(冥王): tục xưng của Diêm La (閻羅), đấng chủ tể của cõi âm. Như trong Tân Tề Hài (新齊諧), phần Tạ Đàn Hà (謝檀霞), của Viên Mai (袁枚, 1716-1797) nhà Thanh có đoạn: “Hốt mộng lại sổ nhân đột chí kỳ gia, trách dĩ thoát miễn chi tội, vị Minh Vương hách nỗ, tương trùng án kỳ sự (忽夢吏數人突至其家、責以脫免之罪、謂冥王赫怒、將重按其事, chợt mộng thấy quan lại mấy người đột nhiên đến nhà ông ấy, tra hỏi về tội được thoát miễn, bảo rằng Minh Vương đùng đùng nổi giận, đem xét xử lại việc này).” Hay như trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ, phần Ngô Việt Vĩnh Minh Tự Trí Giác Thiền Sư (吳越永明寺智覺禪師), lại có đoạn: “Niên cửu thập bát, Phần hương già phu nhi tịch, tháp ư Đại Từ Sơn, Minh Vương hội tượng đảnh lễ (年九十八、焚香跏趺而寂、塔於大慈山、冥王繪像頂禮, năm 98 tuổi, Thiền Sư xông hương ngồi xếp bằng mà tịch diệt, tháp dựng tại Đại Từ Sơn, Minh Vương vẽ tượng đảnh lễ).”
(五香): tức Ngũ Phận Hương (五分香), là 5 Phần hương, gồm hương của Giới (s: śīla, p: sīla, 戒), hương của Định (s, p: samādhi, 定), hương của Tuệ (s: prajñā, p: paññā, 慧), hương của Giải Thoát (s: vimukti, p: vimutti, 解脫) và hương của Giải Thoát Tri [Trí] Kiến (s: vimuktijñāna-darśana, p: vimutti-ñāṇadassana, 解脫知[智]見).
(五分之香): năm loại hương. Bậc Thánh vô học tự thân chứng đắc 5 pháp công đức hay Ngũ Phần Pháp Thân (五分法身), tức là: Giới Thân (戒身), Định Thân (定身), Tuệ Thân (慧身), Giải Thoát Thân (解脫身) và Giải Thoát Tri Kiến Thân (解脫知見身). Nếu lấy hương để ví dụ, tức là hương của Giới (s: śīla, p: sīla, 戒), hương của Định (s, p: samādhi, 定), hương của Tuệ (s: prajñā, p: paññā, 慧), hương của Giải Thoát (s: vimukti, p: vimutti, 解脫) và hương của Giải Thoát Tri [Trí] Kiến (s: vimuktijñāna-darśana, p: vimutti-ñāṇadassana, 解脫知[智]見). Trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) của Tổ Sư Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨) có giải thích về 5 Phần hương rằng: “Thiêu hương giả, diệc phi thế gian hữu tướng chi hương, nãi thị vô vi Chánh Pháp chi hương dã; huân chư xú uế vô minh ác nghiệp, tất linh tiêu diệt; kỳ Chánh Pháp hương giả, hữu kỳ ngũ chủng: nhất giả Giới Hương, sở vị năng đoạn chư ác, năng tu chư thiện; nhị giả Định Hương, sở vị thâm tín Đại Thừa, tâm vô thối chuyển; tam giả Huệ Hương, sở vị thường ư thân tâm, nội tự quán sát; tứ giả Giải Thoát Hương, sở vị năng đoạn nhất thiết vô minh kết phược; ngũ giả Giải Thoát Tri Kiến Hương, sở vị quán chiếu thường minh, thông đạt vô ngại; như thị ngũ chủng hương, danh vi tối thượng chi hương, thế gian vô tỷ; Phật tại thế nhật, linh chư đệ tử, dĩ trí tuệ hỏa, thiêu như thị vô giá trân hương, cúng dường thập phương chư Phật (燒香者、亦非世間有相之香、乃是無爲正法之香也、薰諸臭穢無明惡業、悉令消滅、其正法香者、有其五種、一者戒香、所謂能斷諸惡、能修諸善、二者定香、所謂深信大乘、心無退轉、三者慧香、所謂常於身心、內自觀察、四者解脫香、所謂能斷一切無明結縛、五者解脫知見香、所謂觀照常明、通達無礙、如是五種香、名爲最上之香、世間無比、佛在世日、令諸弟子以智慧火、燒如是無價珍香、供養十方諸佛, đốt hương không phải là đốt loại hương có hình tướng của thế gian, mà là loại hương vô vi Chánh Pháp; xông các ác nghiệp vô minh nhơ nhớp, tất khiến tiêu diệt; loại hương Chánh Pháp ấy, có năm loại: một là Hương Giới, nghĩa là có thể đoạn trừ các điều ác, tu tập các việc lành; hai là Hương Định, nghĩa là tin sâu Đại Thừa, tâm không thối chuyển; ba là Hương Huệ, nghĩa là thường nơi thân tâm này quán sát bên trong; bốn là Hương Giải Thoát, nghĩa là có thể đoạn trừ các vô minh ràng buộc; năm là Hương Giải Thoát Tri Kiến, nghĩa là quán chiếu thường sáng tỏ, thông đạt không ngăn ngại; năm loại hương này được gọi là hương tối thượng, trên thế gian không gì sánh bằng; khi đức Phật còn tại thế, Ngài bảo các đệ tử lấy lửa trí tuệ, đốt loại hương trân quý như vậy để cúng dường mười phương chư Phật).” Cho nên, trong bài kệ niêm hương thường có câu: “Giới Hương, Định Hương dữ Huệ Hương, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến Hương, quang minh vân đài biến pháp giới, cúng dường thập phương vô thượng tôn (戒香定香與慧香、解脫解脫知見香、光明雲臺遍法界、供養十方無上尊, Hương Giới, Hương Định cùng Hương Huệ, Giải Thoát, Hương Giải Thoát Tri Kiến, sáng chói đài mây khắp pháp giới, cúng dường mười phương vô thượng tôn).”
(梵相): có hai nghĩa chính:
(1) Chỉ cho tướng trang nghiêm, thanh tịnh của chư Phật, Bồ Tát, v.v. Như trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 85 có thâu lục bài thơ Võ Túc Vương Hữu Chỉ Thạch Kiều Thiết Trai Hội Tấn Nhất Thi (武肅王有旨石橋設齋會進一詩) của một vị tăng ở Ngô Việt, có câu: “La Hán phàn chi trình Phạm tướng, nham tăng ỷ thọ hiện chơn hình (羅漢攀枝呈梵相、巖僧倚樹現眞形, La Hán vin cành bày tướng hảo, tựa cây tăng núi hiện chơn hình).” Hay trong Năng Cải Trai Mạn Lục (能改齋漫錄), chương Sự Thỉ (事始) 2 của Ngô Tằng (吳曾, khoảng thế kỷ 12) nhà Tống có đoạn: “Thiên hạ tự lập Quan Âm tượng, cái bổn ư Đường Văn Tông hảo thị cáp lị; nhất nhật, ngự soạn trung hữu phách bất khai giả, đế dĩ vi dị, nhân Phần hương chúc chi, nãi khai, tức kiến Bồ Tát hình, Phạm tướng cụ túc (天下寺立觀音像、蓋本於唐文宗好嗜蛤蜊、一日、禦饌中有擘不開者、帝以爲異、因焚香祝之、乃開、卽見菩薩形、梵相具足, các chùa trong thiên hạ đều dựng tượng Quan Âm, vốn xuất phát từ việc vua Văn Tông [tại vị 826-840] nhà Đường thích ăn con sò; một hôm nọ, trong cỗ ăn của nhà vua có con sò bị nạy mà vẫn không mở ra; nhà vua lấy làm lạ, nhân đó thắp hương cầu khấn, con sò liền mở miệng ra, tức thấy hình Bồ Tát, tướng hảo đầy đủ).”
(2) Chỉ chung cho tượng Phật. Như trong bài thơ Tam Nguyệt Thập Nhật Quán Nam An Triệu Sứ Quân Sở Tang Thư Họa Cổ Khí Vật (三月十日觀南安趙使君所藏書畫古器物) của Liễu Quán (柳貫, 1270-1342) nhà Nguyên có câu: “Đình quang cổ Phật xuất Phạm tướng, mãn nguyệt tại thủy liên sanh phu (庭光古佛出梵相、滿月在水蓮生趺, hào quang cổ Phật bày tướng hảo, trăng tròn mặt nước sen ngồi Thiền).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ có câu: “Tống Thích Nghĩa Thông, tánh Duẫn, Cao Lệ quốc tộc, Phạm tướng dị thường, mi trường ngũ thốn dư, ấu xuất gia Quy Sơn Viện (宋釋義通、姓尹、高麗國族、梵相異常、眉長五寸餘、幼出家龜山院, Thích Nghĩa Thông nhà Tống, họ là Duẫn, dòng họ nước Cao Lệ [Triều Tiên], tướng hảo khác thường, lông mày dài hơn 5 tấc, lúc nhỏ xuất gia ở Quy Sơn Viện).” Hay trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19 có đoạn: “Ngôn Pháp Hoa giả, mạc tri kỳ sở tùng lai, Phạm tướng kỳ cổ, ngữ ngôn vô kỵ, xuất một bất trắc, đa hành thị lí, khiên thường nhi xu, hoặc cử chỉ họa không, trữ lập lương cửu, dữ đồ cổ giả du, ẩm đạm vô sở trạch, đạo tục cọng mục vi cuồng tăng (言法華者、莫知其所從來、梵相奇古、語言無忌、出沒不測、多行市里、褰裳而趨、或舉指畫空、佇立良久、與屠沽者游、飲啖無所擇、道俗共目爲狂僧, Ngôn Pháp Hoa, chẳng biết ông từ đâu đến, tướng hảo cổ quái, nói năng chẳng kiêng kỵ, ẩn hiện khôn lường, phần nhiều xuất hiện nơi chợ búa, làng xóm, vén quần mà đi, hoặc có khi đưa ngón tay lên vẽ trên không trung, rồi đứng yên một hồi lâu, cùng với hạng bán rượu thịt giao du, ăn uống đủ thứ, cả đạo lẫn đời đều xem ông là tu sĩ điên).”
(幡[旛]): một loại cờ dài, hẹp, treo rũ thẳng xuống, có ghi nội dung tùy theo mục đích của buổi lễ; còn gọi là lá phướn. Như trong Sử Ký (史記) quyển 117, truyện Tư Mã Tương Như (司馬相如) có đoạn: “Thùy giáng phan chi tố nghê hề, tải vân khí nhi thượng phù (垂絳幡之素蜺兮、載雲氣而上浮, cầu vồng trắng phan đỏ chừ, chở khí mây mà nổi lên). Trong Phật Giáo, loại này thường được dùng với nhiều ý nghĩa, mục đích và tên gọi khác nhau: (1) Bạch Phan (白幡) hay Dẫn Lộ Phan (引路幡) là loại lá phướn dài, hẹp, màu trắng, được dùng bài trí trước linh cữu trong khi đám tang; với ý nghĩa là để dẫn dắt linh hồn người quá cố; trên đó ghi tên họ, quê quán, pháp danh, v.v., những thông tin liên quan đến người quá cố. Tại Việt Nam, loại này thường có màu đỏ, được gọi là lá Triệu. (2) Tràng Phan (幢幡) được xem như là một loại pháp khí, rất thông dụng trong các pháp đàn của Phật Giáo lẫn Đạo Giáo, dùng để cáo Trời đất, mời gọi chư Thần linh. Tràng (幢) khác với Phan ở điểm là trên đầu của lá Tràng thường có lọng che, cầm với cây cán; còn Phan thì không có lọng che, cầm trực tiếp bằng tay. Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經) quyển 1, Phẩm Tựa (序品) thứ nhất có câu: “Nhất nhất tháp miếu, các thiên tràng phan (一一塔廟、各千幢幡, mỗi một tháp miếu, có ngàn tràng phan).” (3) Bạch Hổ Phan (白虎幡) là loại lá phướn trên có trang trí hình con hổ trắng, dùng để truyền tin chiếu lệnh. Như trong Tống Thư (宋書) quyển 40, phần Bách Quan Chí (百官志) có đoạn: “Triêu hội yến hưởng, tắc Tướng Quân nhung phục, trực thị tả hữu, dạ khai thành chư môn, tắc chấp Bạch Hổ Phan giám chi (朝會宴饗、則將軍戎服、直侍左右、夜開城諸門、則執白虎幡監之, sáng gặp yến tiệc, tất Tướng Quân mặc nhung phục, hai bên có người hầu hạ, đêm về mở các cửa thành, thì cầm Phan Bạch Hổ đi giám sát). (4) Phan Cái (幡蓋) là một loại tràng phan trên có lọng che, dùng để trang trí tại các nơi tôn nghiêm như đền thờ, chùa chiền, v.v. Như trong bài thơ Đăng Thiên Phước Tự Sở Kim Thiền Sư Pháp Hoa Viện Đa Bảo Tháp (登千福寺楚金禪師法華院多寶塔) của Sầm Tham (岑參, khoảng 715-770) có câu: “Phần hương như vân đồn, phan cái san san thùy (焚香如雲屯、幡蓋珊珊垂, hương xông như mây tụ, phan cái rũ leng keng).” Trong Công Văn Đàn Tràng, thường có các loại Phan như Trùng Tang Phan (重喪旛), Thập Nhị Thần Sát Phan (十二神煞旛), Chiêu Linh Phan (召靈旛), Thiên Lôi Phan (天雷旛), Thất Như Lai Phan (七如來旛), v.v.
(桂月): có hai nghĩa chính:
(1) Chỉ mặt trăng; vì truyền thuyết cho rằng trên mặt trăng có cây quế, nên có tên như vậy. Như trong bài Đông Phi Bá Lao Ca (東飛伯勞歌) thuộc Tạp Khúc Ca Từ Bát (雜曲歌辭八) của Lạc Phủ Thi Tập (樂府詩集) có câu: “Nam song Bắc dũ quế nguyệt quang, la duy ỷ trướng chỉ phấn hương (南窗北牖桂月光、羅帷綺帳脂粉香, cửa Nam song Bắc tỏa sáng trăng, rèm the màn lưới phấn sáp thơm).” Hay trong bài Chung Nam Sơn Nghĩa Cốc Minh (終南山義谷銘) của Dữu Tín (庾信, 513-581) nhà Bắc Chu có câu: “Quế nguyệt nguy huyền, phong tuyền hư vận (桂月危懸、風泉虛韻, mặt trăng treo cao, suối reo tiếng lắng).” Hoặc trong bài Đối Nguyệt Liễu Tàn Kinh (對月了殘經) của Liễu Đường Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (了堂惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1417) quyển 4 lại có đoạn: “Thiên biên quế nguyệt quyên quyên, lô thượng đàn yên kiêu kiêu, khoáng kiếp tằng khan để kinh, vị triển quyển thời đô liễu (天邊桂月娟娟、爐上檀煙梟梟、曠劫曾看底經、未展卷時都了, bên trời trăng tỏ xinh xinh, trên lò khói bốc nghi ngút, muôn kiếp từng đọc bao kinh, khi chưa mở ra đã ngộ).”
(2) Chỉ cho tháng Tám Âm Lịch, vì vào tháng này hoa quế nở rộ, nên có tên như vậy. Như trong bài Tăng Chi Kim Lăng (僧之金陵, Tăng Đi Kim Lăng) của Hư Đường Hòa Thượng Ngữ Lục (虛堂和尚語錄, q.7, Taishō Vol. 47, No. 2000) quyển 7 có đoạn: “Lương tiêu quế nguyệt cảnh trung đình, củng tại thanh sa diệp để minh, biệt ngã thốn tâm như thốn thiết, bất tri Nam quốc kỉ đa trình (良宵桂月耿中庭、蛩在青莎葉底鳴、別我寸心如寸鐵、不知南國幾多程, đêm nay trăng tỏ rạng mái đình, dế mèn dưới cỏ kêu ỏi inh, mình ta tấc lòng như nặng trĩu, chẳng hay nước Nam mấy dặm trình).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập