Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta trở nên thông thái không phải vì nhớ lại quá khứ, mà vì có trách nhiệm đối với tương lai. (We are made wise not by the recollection of our past, but by the responsibility for our future.)George Bernard Shaw
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngũ Đăng Toàn Thư »»
(頑石點頭): nghĩa là loại đá ngu ngơ, vô tri vô giác mà cũng gật đầu. Thuật ngữ này phát xuất từ câu chuyện của Pháp Sư Trúc Đạo Sanh (竺道生, ?-434) có đề cập trong một số sử liệu như Lịch Triều Thích Thị Tư Lãm (歷朝釋氏資鑑, CBETA No. 1517) quyển 2, Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, CBETA No. 1541), Đông Lâm Thập Bát Cao Hiền Truyện (東林十八高賢傳, CBETA No. 1543), Tông Thống Biên Niên (宗統編年, CBETA No. 1600) quyển 7, v.v. Pháp Sư Trúc Đạo Sanh, họ Ngụy (魏), xuất thân Cự Lộc (鉅鹿), tư chất đỉnh ngộ khác thường. Lúc nhỏ, ông theo xuất gia với Trúc Pháp Thái (竺法汰), đối với kinh điển, chỉ một lần nhìn qua đã tụng thông suốt hết thảy. Khi trưởng thành, ông đăng pháp tòa, thuyết giảng thông suốt sự lý. Tuy vậy, ông vẫn không hề dám tự hào, thường lấy đạo tâm ban đầu làm căn bản. Ông vào Lô Sơn (廬山) ẩn cư suốt bảy năm trường, hằng ngày chuyên tụng Pháp Hoa Kinh (法華經). Sau ông cùng với Tăng Duệ (僧叡), Huệ Nghiêm (慧嚴), Huệ Quán (慧觀), v.v., lên Trường An (長安) tham học, theo thọ giáo với La Thập (羅什). Tăng chúng ai cũng ngưỡng mộ sự thần ngộ của ông. Hoàng Hậu Cung Tư (恭思) nhà Tấn kiến lập Thanh Viên Tự (青園寺) và cung thỉnh ông về làm trú trì nơi đây. Vào tháng mùa hè, sấm sét chấn động điện Phật Thanh Viên Tự, rồng bay lên trời, hào quang rực rỡ. Nhân đó chùa được đổi tên là Long Quang Tự (龍光寺). Người đương thời bảo rằng: “Long ký dĩ khứ, Sanh tất hành hỉ (龍既已去、生必行矣, rồng đã đi rồi, Sanh ắt đi luôn).” Chính tại chùa này, ông đã từng thỉnh luật sư vùng Kế Tân (罽賓) dịch bộ Sa Di Tắc Luật (沙彌塞律) và lưu truyền cho hậu thế. Về sau ông lên ngao du Hổ Kheo Sơn (虎丘山) thuộc đất Ngô, sắp đá làm thành thính chúng, giảng Niết Bàn Kinh (涅槃經), đến Phẩm Xiển Đề (闡提品), đoạn có Phật tánh, bèn bảo rằng: “Như ngã sở thuyết, nghĩa khế Phật tâm phủ (如我所說、義契佛心否, như lời ta thuyết giảng, nghĩa có khế hợp với tâm chư Phật không ?).” Các tảng đá vô tri nghe vậy gật đầu. Chỉ nội trong tuần đó, học đồ tập trung đến cả trăm người. Vua Văn Đế (文帝, tại vị 424~453) nhà Tống nghe vậy lại càng kính mộ thêm. Vào tháng 11 năm thứ 11 (434) niên hiệu Nguyên Gia (元嘉) nhà Tống, sau khi thuyết giảng xong tại Lô Sơn, cát bui rơi rụng, ông ngồi ngay ngắn, thâu thần thị tịch như nhập vào Thiền định. Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, CBETA No. 1571) quyển 110 có câu: “Vô tình thuyết pháp chư Phật giải thính, chư Phật thuyết pháp hữu tình đắc văn, hữu tình thuyết pháp ngoan thạch điểm đầu (無情說法諸佛解聽、諸佛說法有情得聞、有情說法頑石點頭, vô tình thuyết pháp chư Phật lắng hiểu, chư Phật thuyết pháp hữu tình được nghe, hữu tình thuyết pháp đá cũng gật đầu).”
(霽崙超永, Sairin Chōei, ?-?): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Tể Lôn (霽崙), người biên tập bộ Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書), xuất thân Huề Lý (擕李, Huyện Gia Hưng, Phủ Gia Hưng, Tỉnh Triết Giang), họ Diêu (姚). Ban đầu, ông theo học Nho Giáo, đến khi biến loạn trong khoảng thời gian niên hiệu Sùng Trinh (崇禎, 1628-1645), ông gặp phải đạo tặc sắp nguy hại đến tính mạng nhưng may mắn thoát nạn. Về sau, nhân đọc cuốn Kim Túc Dung Ngữ Lục (金粟容語錄) của vị tăng nọ, ông cảm ngộ, nên vào mùa hạ năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông đến lễ bái Thâm Vân Quả (深雲果) ở Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang) và xuống tóc xuất gia với vị này. Cũng vào mùa thu năm này, ông đến tham yết Bách Ngu Tịnh Tư (百愚淨斯), rồi sau đó viếng qua các nơi như Thiên Đồng Sơn (天童山), Kính Sơn (徑山), Báo Ân Tự (報恩寺), Kim Túc Tự (金粟寺), v.v. Vào mùa xuân năm thứ 9 (1652) niên hiệu Thuận Trị, ông đến tham yết An Điền Tĩnh (安田靜) ở Phước Nguyên (福源), và vào ngày mồng 8 tháng 12, ngày Phật thành đạo, ông được vị này thọ ký cho. Sau đó, ông đã từng sống qua và giáo hóa tại một số nơi khác như Tây Sơn Thánh Cảm Tự (西山聖感寺) ở Bắc Kinh (北京), Huyện Bình Hồ (平湖縣) thuộc Tỉnh Triết Giang (浙江省), Thượng Hải (上海), Gia Hưng (嘉興), Thiểm Tây (陝西), Huyện Vĩnh Gia (永嘉縣) thuộc Tỉnh Triết Giang, v.v. Vào năm thứ 32 (1693) niên hiệu Khang Hy (康熙), ông biên tập bộ Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書), 120 quyển. Ngoài ra, theo ký lục của đệ tử của ông là Minh Thành (明誠) cho biết rằng ông còn có các trước tác khác như Tể Lôn Siêu Vĩnh Thiền Sư Ngữ Lục (霽崙超永禪師語錄) 20 quyển, Thâm Tuyết Thảo Đường Tập (深雪草堂集) 30 quyển, Pháp Uyển Anh Hoa (法苑英華), Độc Thư Tùy Ký (讀書隨記), Cổ Kim Tăng Thi (古今僧詩) 60 quyển.
(深器): biết rõ là bậc pháp khí, hiểu rõ là người xuất chúng. Như trong Tục Đăng Tồn Cảo (續燈存稿, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1585) quyển 11 có đoạn rằng: “Tây Kinh Bảo Ứng Nguyệt Nham Vĩnh Đạt Thiền Sư, Phần Châu Lưu thị tử, thọ nghiệp ư lí chi Thiên Ninh, mỗi dĩ sanh tử vi khích lệ; vãng kiến Linh Nham, Nham thâm khí chi (西京寶應月岩永達禪師、汾州劉氏子、受業於里之天寧、每以生死爲激勵、往見靈巖、巖深器之, Thiền Sư Nguyệt Nham Vĩnh Đạt ở Bảo Ứng, Tây Kinh, là con nhà họ Lưu ở Phần Châu, thọ giáo với Thiên Ninh ở quê nhà, thường lấy việc sống chết để khích lệ mình; Thiền Sư đến gặp Linh Nham, Ngài biết đây là người xuất chúng).” Hay như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 5 có đoạn viết về Thiền Sư Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思, ?-740): “Tổ thâm khí chi, hội hạ học đồ tuy chúng, sư cư thủ yên (祖深器之、會下學徒雖眾、師居首焉, Tổ biết là bậc pháp khí, trong chúng đệ tử tuy đông, nhưng Thiền Sư vẫn là người đứng đầu).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 81, No. 1571) quyển 20 cũng có đoạn ghi lại hành trạng của Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽, 904-975) như sau: “Tầm trú Thiên Thai Sơn Thiên Trụ Phong, cửu tuần tập định, hữu ô loại xích yến, sào ư y triệp trung, kị yết Thiều Quốc Sư, nhất kiến nhi thâm khí chi, mật thọ nguyên chỉ (尋往天台山天柱峰、九旬習定、有烏類斥鷃、巢於衣襵中、暨謁韶國師、一見而深器之、密授元旨, Thiền Sư tìm đến trú tại đỉnh núi Thiên Trụ, Thiên Thai Sơn, tu Thiền định trong chín tuần; có loài chim sẻ đen như quạ, làm tổ trong chéo áo Thiền Sư; sau Thiền Sư đến tham yết Thiều Quốc Sư, chỉ mới gặp mà Quốc Sư đã biết là bậc xuất chúng, bèn bí mật truyền trao cho huyền chỉ).”
(深器): biết rõ là bậc pháp khí, hiểu rõ là người xuất chúng. Như trong Tục Đăng Tồn Cảo (續燈存稿, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1585) quyển 11 có đoạn rằng: “Tây Kinh Bảo Ứng Nguyệt Nham Vĩnh Đạt Thiền Sư, Phần Châu Lưu thị tử, thọ nghiệp ư lí chi Thiên Ninh, mỗi dĩ sanh tử vi khích lệ; vãng kiến Linh Nham, Nham thâm khí chi (西京寶應月岩永達禪師、汾州劉氏子、受業於里之天寧、每以生死爲激勵、往見靈巖、巖深器之, Thiền Sư Nguyệt Nham Vĩnh Đạt ở Bảo Ứng, Tây Kinh, là con nhà họ Lưu ở Phần Châu, thọ giáo với Thiên Ninh ở quê nhà, thường lấy việc sống chết để khích lệ mình; Thiền Sư đến gặp Linh Nham, Ngài biết đây là người xuất chúng).” Hay như trong Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 5 có đoạn viết về Thiền Sư Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思, ?-740): “Tổ thâm khí chi, hội hạ học đồ tuy chúng, sư cư thủ yên (祖深器之、會下學徒雖眾、師居首焉, Tổ biết là bậc pháp khí, trong chúng đệ tử tuy đông, nhưng Thiền Sư vẫn là người đứng đầu).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 81, No. 1571) quyển 20 cũng có đoạn ghi lại hành trạng của Thiền Sư Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽, 904-975) như sau: “Tầm trú Thiên Thai Sơn Thiên Trụ Phong, cửu tuần tập định, hữu ô loại xích yến, sào ư y triệp trung, kị yết Thiều Quốc Sư, nhất kiến nhi thâm khí chi, mật thọ nguyên chỉ (尋往天台山天柱峰、九旬習定、有烏類斥鷃、巢於衣襵中、暨謁韶國師、一見而深器之、密授元旨, Thiền Sư tìm đến trú tại đỉnh núi Thiên Trụ, Thiên Thai Sơn, tu Thiền định trong chin tuần; có loài chim sẻ đen như quạ, làm tổ trong chéo áo Thiền Sư; sau Thiền Sư đến tham yết Thiều Quốc Sư, chỉ mới gặp mà Quốc Sư đã biết là bậc xuất chúng, bèn bí mật truyền trao cho huyền chỉ).”
(禪席): chỗ ngồi để tham học Thiền, hành Thiền; từ đó chỉ chung cho nơi tham vấn Thiền, hay cũng là tên gọi khác của Thiền Viện (禪院). Như trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 73, phần Nam Nhạc Hạ Tam Thập Ngũ Thế Tùy Lục (南嶽下三十五世隨錄), Quảng Nhuận Cự Linh Tự Dung Thiền Sư (廣潤巨靈自融禪師), có câu: “Nãi biến lịch chư Thiền tịch, hậu yết Sơn Ông Mân đắc pháp (乃遍歷諸禪席、後謁山翁忞得法, Thiền Sư bèn đi khắp các Thiền đường, sau tham yết Sơn Ông Đạo Mân và đắc pháp [của vị này]).” Hay trong Thiền Lâm Bảo Huấn Âm Nghĩa (禪林寶訓音義, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1262) lại có đoạn: “Thị thời nội sứ Lý Doãn Ninh, tấu thí Biện trạch nhất khu, sáng lập Thiền tịch, tứ ngạch Thập Phương Tịnh Nhân Thiền Viện (是時內使李允寧、奏施汴宅一區、創立禪席、賜額十方淨因禪院, lúc bấy giờ nội sứ Lý Doãn Ninh, tâu lên nhà vua xin cho một khu nhà ở đất Biện, sáng lập nơi tu Thiền, ban cho biển ngạch là Thập Phương Tịnh Nhân Thiền Viện).” Hoặc trong Tân Tu Khoa Phần Lục Học Tăng Truyện (新修科分六學僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1522) quyển 20, phần Đường Kiểu Nhiên (唐皎然), cũng có đoạn: “Trung niên biến phỏng Thiền tịch, Nam Năng Bắc Tú chi chỉ, giai sở tham khấu (中年遍訪禪席、南能北秀之指、皆所參扣, tuổi trung niên sư đi khắp các Thiền viện, yếu chỉ của Huệ Năng ở phương Nam và Thần Tú ở phương Bắc, đều đã từng tham học qua).”
(小參, shōsan): còn gọi là Gia Huấn (家訓) hay Gia Giáo (家敎), nghĩa là tại Phương Trượng, người đệ tử thọ pháp từ vị Trú Trì. Tiểu Tham đối với Đại Tham (大參, daisan), vốn thọ pháp nơi Pháp Đường. Chính vì nói về những lời dạy trong nhà, nên pháp này được tiến hành rất tinh tế, nhỏ nhặt, từ pháp thoại, Tông yếu cho đến những sinh hoạt hằng ngày. Khi cả đại chúng cùng đến tham vấn thì được gọi là Quảng Tham (廣參); còn đứng nghe thuyết pháp là Lập Tham (立參). Như trong Thiền Môn Quy Thức (禪門規式) có dạy rằng: “Kỳ hạp viện đại chúng, triêu tham tịch tụ (其闔院大眾、朝參夕聚, toàn thể đại chúng trong chùa, cùng nhau sáng chiều tập trung tham vấn)”; dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) thì tùy thời mà tiến hành nghi thức này; nhưng đến thời nhà Tống (宋, 960-1279) thì được gọi là Vãn Tham (晩參), và theo Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規) thì nó được tiến hành mang tính định kỳ vào tối ngày mồng 3 và 8 mỗi tháng. Theo Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規), tùy theo chúng ít hay nhiều mà pháp Tiểu Tham được tiến hành tại Pháp Đường. Trường hợp đến tham vấn vào sáng sớm thì được gọi là Tảo Tham (早參), Triêu Tham (朝參). Hiện tại trong Tào Động Tông, mỗi tháng vào ngày mồng 1 và 15, người ta tiến hành pháp này ở Pháp Đường. Như trong Ứng Am Đàm Hoa Thiền Sư Ngữ Lục (應菴曇華禪師語錄, CBETA No. 1359) quyển 4 có đoạn: “Tăng vấn: 'bất điểm đăng, Đức Sơn Tiểu Tham bất đáp thoại, vị thẩm ý chỉ như hà' (僧問、藥山小參不點燈、德山小參不答話、未審意旨如何, có vị tăng hỏi rằng: 'Dược Sơn Tiểu Tham không thắp đèn, Đức Sơn Tiểu Tham chẳng đáp lời, chưa rõ ý chỉ như thế nào ?').” Hay như trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, CBETA No. 1571), quyển 101, phần Tùy Châu Phổ Chiếu Chúc Phong Thiện Thiền Sư (隨州普照祝峰善禪師) cũng có đoạn: “Trừ Tịch Tiểu Tham, kim triêu Phật pháp bất tương đồng, niên nguyệt tuế thiên vật vật cùng, duy hữu nạp tăng phân thượng sự, minh thần y cựu chúc Nghiêu phong (除夕小參、今朝佛法不相同、年月歲遷物物窮、惟有衲僧分上事、明晨依舊祝堯風, vào đêm Trừ Tịch, Thiền Sư hành pháp Tiểu Tham, bảo rằng sáng nay Phật pháp chẳng tương đồng, năm tháng đất trời vạn vật cùng, chỉ có lão tăng biết rõ thảy, mai này như cũ chúc bình yên).”
(趙州茶): tách trà của Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗, 778-897). Ông xuất thân môn hạ của Nam Nhạc. Lúc còn nhỏ, ông xuất gia ở Hỗ Thông Viện (扈通院), rồi đến vùng Trì Dương (池陽), tham yết với Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), và được khế ngộ. Về sau, ông còn đến tham bái một số danh tăng đương thời như Hoàng Bá (黃檗), Bảo Thọ (寳壽), Diêm Quan (鹽官), Giáp Sơn (夾山), v.v.; và cuối cùng thể theo lời thỉnh cầu của đồ chúng, ông đến trú tại Quan Âm Viện (觀音院), vùng Triệu Châu (趙州, thuộc Tỉnh Hà Bắc). Tại đây ông đã tuyên dương Thiền phong độc đáo trong suốt 40 năm. Thuật ngữ triệu châu trà vốn phát xuất từ câu chuyện “Khiết trà khứ (喫茶去, uống trà đi)” được ký lục lại trong khá nhiều thư tịch Thiền Tông. Tỷ dụ như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 20 ghi như sau: “Triệu Châu vấn tân đáo: 'Tằng đáo thử gian ma ?' Đáp: 'Tằng đáo.' Sư viết: 'Khiết trà khứ.' Hựu vấn tăng, tăng viết: 'Bất tằng đáo.' Sư viết: 'Khiết trà khứ.' Hậu Viện Chủ vấn viết: 'Vi thập ma, tằng đáo dã vân khiết trà khứ, bất tằng đáo khiết trà khứ. Sư chiêu Viện Chủ, Chủ ứng nặc, sư viết: 'Khiết trà khứ.' (趙州問新到、曾到此間麼、曰曾到、師曰、喫茶去、又問僧、僧曰、不曾到、師曰、喫茶去、後院主問曰、爲甚麼、曾到也云喫茶去、不曾到也云喫茶去、師召院主、主應喏、師曰、喫茶去, Triệu Châu hỏi người mới đến rằng: 'Đã từng đến đây chưa ?' Đáp: 'Đã từng đến.' Sư bảo: 'Uống trà đi !' Lại hỏi vị tăng khác, người ấy trả lời: 'Chưa từng đến.' Sư bảo: 'Uống trà đi !' Về sau, thầy Viện Chủ mới hỏi rằng: 'Người đã từng đến ngài cũng bảo là uống trà đi, người chưa từng đến ngài cũng bảo là uống trà đi, vậy là thế nào ?' [Khi ấy] sư gọi thầy Viện Chủ, thầy đáp: 'Dạ.' Sư bảo: 'Uống trà đi !').” “Khiết trà khứ” đã trở thành một công án Thiền đặc sắc, được tìm thấy trong khá nhiều ngữ lục Thiền; cũng như trong điển tịch trên, Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭, 947-1024) có làm bài tụng về công án đó là: “Triệu Châu hữu ngữ khiết trà khứ, thiên hạ nạp tăng tổng đáo lai, bất thị thạch kiều nguyên để hoạt, hoán tha đa thiểu nạp tăng hồi (趙州有語喫茶去、天下衲僧總到來、不是石橋元底滑、喚他多少衲僧回, Triệu Châu có câu uống trà đi, thiên hạ chúng tăng thảy đến đây, chẳng phải cầu đá nguyên bóng mượt, cuối cùng nhiều ít có kẻ về).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 97, phần Ích Châu Tung Sơn Dã Trúc Phước Tuệ Thiền Sư (益州嵩山野竹福慧禪師), có câu: “Trượng thượng vô tiền cô tự tửu, thả khuynh nhất oản Triệu Châu Trà (杖上無錢沽白酒、且傾一碗趙州茶, trên gậy không tiền mua tự uống, còn nốc một chén Triệu Châu Trà).” Cũng trong thư tịch trên, quyển 98 lại có câu: “Khiết tận Triệu Châu Trà, thiêu khước Huệ Lâm Phật (吃盡趙州茶、燒卻慧林佛, uống sạch Triệu Châu Trà, đốt tiêu Huệ Lâm Phật).” Trong nghi Cúng Chung Thất Trai Tuần cho chư vị cao tăng viên tịch, cũng có câu kệ liên quan đến Triệu Châu Trà: “Sơ hiến Triệu Châu Trà, phanh lai thật hinh hoa, tấn hiến giác linh tòa, tảo vãng pháp vương gia (初獻趙州茶、烹來寔馨花、進獻覺靈座、早往法王家, mới cúng Triệu Châu Trà, nấu sôi thật thơm tho, dâng cúng giác linh ngự, sớm lên pháp vương nhà).”
(竺典): kinh điển Phật Giáo. Trong bài Tống Giáp Sơn Mẫu Cữu Chi Nhiệm Thái Nguyên Tự (送夾山母舅之任太原序) của Viên Tông Đạo (袁宗道, 1560-1600) nhà Minh có đoạn: “Đạo Đức, Nam Hoa dĩ cập trúc điển diệc đa thiệp liệp, huy trần viện hào, vãng vãng hữu hiệu (道德、南華以及竺典亦多涉獵、揮麈援毫、往往有效, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh cho đến kinh điển Phật Giáo có nhiều liên quan với nhau, chấp bút đàm luận, thường có hiệu quả).” Hay trong bài thơ Tiểu Trừ Dạ Thị Học Nhân (小除夜示學人) của Tịch Đăng (寂燈, ?-?) nhà Minh lại có câu: “Trúc điển đương tôn trọng, phàm tình mạc lãng phàn (竺典當尊重、凡情莫浪攀, kinh Phật nên tôn trọng, phàm phu chớ buông lung).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 81, phần Kì Châu Tam Giác Thiên Phong Tánh Thiền Sư (蘄州三角天峰性禪師), cũng có câu rằng: “Mỗi độc trúc điển, triệt nhật vong quyện (每讀竺典、徹日忘倦, [Thiền Sư] mỗi khi đọc kinh Phật, suốt ngày quên mệt mỏi).” Hoặc trong Tiếu Ẩn Đại Hân Thiền Sư Ngữ Lục (笑隱大訢禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1367) quyển 2 lại có đoạn rằng: “Viên tác liên cung, khai bát hoang chi thọ vức; tải dương trúc điển, tráng vạn thế chi phi đồ (爰作蓮宮、開八荒之壽域、載揚竺典、壯萬世之丕圖, bèn dựng chùa chiền, mở tám phương ấy cõi thọ; xiển dương kinh Phật, sáng muôn thưở ấy cơ đồ).”
(傳衣): thuật ngữ của Thiền Tông. Tông phái này lấy đại y Kim Lan (金襴, y Ca Sa được dệt bằng tơ vàng) làm Pháp Y (法衣), truyền trao lại cho đệ tử như là tín vật truyền pháp. Từ thời đức Phật còn tại thế cho đến nay, chư Tổ sư đều vâng giữ truyền thống linh thiêng này. Trong Thiền lâm cũng tuân thủ cách thức này, vị thầy thường chọn ra trong hàng đồ chúng đệ tử xuất sắc, để lấy giáo pháp truyền trao cho người đó, đồng thời ban cho vị đó tăng y, và y Ca Sa này được gọi là tín y (信衣). Ngoài ra, truyền thọ giáo pháp cũng có tên là truyền y. Vì y Ca Sa (s: kaṣāya; p: kāsāya, 袈裟) và Bát (s: pātra, p: patta, 鉢) là hai pháp cụ thường xuyên được mang theo bên mình chư Tăng Ni, từ đó trở thành vật được truyền thừa giữa thầy với trò; vì vậy truyền pháp cũng được gọi là truyền y bát (傳衣鉢). Sau này, thậm chí truyền trao các nghệ năng, học thuật cũng gọi là truyền y bát. Như trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 3 có đoạn rằng: “Tích Đạt Ma sơ chí, nhân vị tri tín, cố truyền y dĩ minh đắc pháp; kim tín tâm dĩ thục, y nãi tranh đoan, chỉ ư nhữ thân, bất phục truyền dã (昔達磨初至、人未知信、故傳衣以明得法、今信心已熟、衣乃爭端、止於汝身、不復傳也, xưa kia khi Đạt Ma mới đến, con người chưa biết tin, nên truyền trao y để cho biết đắc pháp; nay tín tâm đã chín muồi, y lại tranh giành, dừng nơi thân ngươi, không nên truyền nữa).” Trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1315) còn cho biết thêm rằng: “Tây Thiên nhị thập bát tổ, Đường Độ lục tổ, quá khứ thánh nhân, tận đắc truyền y phó pháp, chí Đường đại Lục Tổ chi hậu, đắc đạo giả như đạo ma trúc vi, bất truyền kỳ y, chỉ truyền kỳ pháp, giai dĩ hương vi tín (西天二十八祖、唐土六祖、過去聖人、盡得傳衣付法、至唐代六祖之後、得道者如稻麻竹葦、不傳其衣、只傳其法、皆以香爲信, hai mươi tám vị Tổ Tây Thiên [Ấn Độ], sáu vị Tổ Đường Độ [Trung Hoa], thánh nhân trong quá khứ, đều được truyền y phú pháp, đến sau thời Lục Tổ Huệ Năng nhà Đường, người đắc đạo nhiều như lúa mè, tre lau, nên không truyền y ấy nữa, chỉ truyền pháp ấy, đều lấy hương làm tín vật).” Hay trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 117, phần Tín Châu Bác Sơn Di Sanh Hoằng Hỷ Thiền Sư (信州博山怡生弘喜禪師), lại có câu: “Tích nhật Hoàng Mai dạ bán truyền y, kim triêu Bác Sơn đương đường thọ ký (昔日黃梅夜半傳衣、今朝博山當堂授記, ngày xửa Hoàng Mai nữa đêm truyền y, sáng nay Bác Sơn Thiền đường thọ ký).” Hoặc trong Ngự Tuyển Ngữ Lục (御選語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1319) quyển 19, bài Tổ Ý (祖意), có đoạn: “Lục Tổ bất truyền y, Đạt Ma lưu chích lí, dục phân dị dữ đồng, thấu đức tri huyền chỉ (六祖不傳衣、達摩留隻履、欲分異與同、透得知玄旨, Lục Tổ chẳng truyền y, Đạt Ma để chiếc dép, muốn biết khác với đồng, biết thấu rõ huyền chỉ).”
(嗣法): thuật ngữ của Thiền Tông, nghĩa là kế thừa pháp thống, dòng pháp; còn gọi là truyền pháp (傳法), từ tục (嗣續). Xưa kia, khi truyền pháp cho Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉), lời phó chúc của đức Phật vẫn còn ghi lại trong khá nhiều tác phẩm của Thiền Tông như Truy Môn Thế Phổ (緇門世譜, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1603), Gia Thái Phổ Đăng Lục (嘉泰普燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1559) quyển 1, Truyền Pháp Chánh Tông Luận (傳法正宗論, Taishō Vol. 51, No. 2080) quyển Hạ, Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1565) quyển 1, Ngũ Đăng Nghiêm Thống (五燈嚴統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1568) quyển 1, Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 1, v.v., rằng: “Ngô dĩ thanh tịnh Pháp Nhãn, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu Chánh Pháp, tương phó ư nhữ, nhữ đương hộ trì (吾以清淨法眼、涅槃妙心、實相無相、微妙正法、將付於汝、汝當護持, ta lấy Pháp Nhãn thanh tịnh, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng không tướng, Chánh Pháp vi diệu, giao phó cho ngươi, ngươi hãy giữ gìn).” Dòng pháp thống này kéo dài mãi cho đến ngày nay, nối tiếp từ đời này sang đời khác, nên gọi là từ pháp. Nếu nói về nghĩa hẹp thì có nghĩa là đệ tử kế thừa giáo pháp của Thầy, nên có tên gọi là pháp từ (法嗣). Thông thường, khi truyền thừa giữa Thầy với trò, vị Thầy sẽ truyền trao cho trò sách kế thừa để làm vật chứng minh, nhưng người được truyền thừa chỉ giới hạn trong hàng ngũ Tăng sĩ xuất gia mà thôi. Trong Cẩm Giang Thiền Đăng (錦江禪燈, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1590) quyển 14 có đoạn: “Hoắc Sơn Hám Dư Xiêm Thiền Sư, Tây Sung Vương thị tử, tham biến tôn túc, mạt hậu nhập Tự Nhàn Hòa Thượng thất, thỉ từ pháp yên, xuất trú Tấn chi Hoắc Sơn (霍山憨余暹禪師、西充王氏子、參遍尊宿。末後入自閒和尚室、始嗣法焉、出住晉之霍山, Thiền Sư Hám Dư Xiêm ở Hoắc Sơn, là con nhà họ Vương ở Tây Sung, đi tham học khắp chư vị tôn túc, đến cuối cùng thì vào thất của Hòa Thượng Tự Nhàn, khi ấy mới được kế thừa dòng pháp, rồi trở ra trú tại Hoắc Sơn nhà Tấn).” Hay trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 87 có câu: “Cẩm Quan Thảo Đường Hống Nhất Đẳng Thiền Sư, Vinh Xương Vương thị tử, từ pháp vu Đạm Trúc Mật, trú Cẩm Quan Thảo Đường Tự (錦官草堂吼一等禪師、榮昌王氏子、嗣法于澹竹密、住錦官草堂寺, Thiền Sư Thảo Đường Hống Nhất Đẳng ở Cẩm Quan, là con của dòng họ Vương ở Vinh Xương, truyền pháp cho Đạm Trúc Mật, trú tại Thảo Đường Tự, Cẩm Quan).” Trong Phật Tổ Chánh Truyền Cổ Kim Tiệp Lục (佛祖正傳古今捷錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1595) có đoạn ghi về Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn như sau: “Hàm Hưởng trung, truyền pháp Lô Năng, thị tịch ư Cao Tông Thượng Nguyên nhị niên Ất Hợi, thọ thất thập hữu tứ, thụy viết Đại Mãn, từ pháp nhất thập tam nhân (咸亨中、傳法盧能、示寂於高宗上元二年乙亥、壽七十有四、諡曰大滿、嗣法一十三人, trong khoảng niên hiệu Hàm Hưởng [670-674], Tổ truyền pháp cho Huệ Năng, thị tịch vào năm Ất Hợi, niên hiệu Thượng Nguyên thứ 2 [675] đời vua Cao Tông, hưởng thọ 74 tuổi, thụy hiệu là Đại Mãn, kế thừa dòng pháp 13 người).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập