Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhật Hựu »»
(大德寺, Daitoku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Đức Tự (大德寺派) thuộc Lâm Tế Tông, hiệu núi là Long Bảo Sơn (龍寶山), hiện tọa lạc tại số 53 Daitokuji-cho (大德寺町), Murasakino (紫野), Kita-ku (北區), Kyoto-shi (京都市), Kyoto-fu (京都府). Người đời thường gọi là Tử Dã Đại ĐứcTự (紫野大德寺, Murasakunodaitoku-ji), tên gọi chính thức là Long Bảo Sơn Đại Đức Thiền Tự (龍寶山大德禪寺). Chùa được sáng lập vào năm đầu (1319) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), và vị Tổ khai sơn chùa là Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超). Diệu Siêu là người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), ban đầu ông làm đệ tử của vị Luật Sư Giới Tín (戒信), nhưng sau đó thì lại theo học đạo với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), rồi được vị này thọ ký cho. Đến năm 1308, khi Nam Phố Thiệu Minh qua đời, thì ông đến sống ở Vân Cư Am (雲居庵). Khi ấy vị trấn thủ vùng Bá Ma là Hộ Tắc Thôn (護則村) nghe như vậy, bèn kiến lập một tòa Pháp Đường ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino), rồi cung thỉnh Diệu Siêu đến ở đó. Sau Hậu Đế Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) nghe được uy đức của ông, bèn thỉnh vào cung cấm mà tham vấn yếu chỉ của Thiền, rồi ban cho đất đai mà xây dựng ngôi già lam, lấy tên gọi là Long Bảo Sơn Đại Đức Tự (龍寶山大德寺). Kế đến Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) lại sắc phong cho chùa là Đạo Tràng Kỳ Nguyện, và xếp vào một trong năm ngôi chùa nổi tiếng vùng Kyoto. Vào năm thứ 2 (1453) niên hiệu Hưởng Đức (享德), do bị hỏa hoạn lớn nên hơn phân nữa chùa bị cháy tan, rồi sau đó gặp phải binh hỏa của vụ Loạn Ứng Nhân (應仁). Về sau, vào năm thứ 6 (1474) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純) mới nỗ lực tái hưng lại ngôi chùa này. Đến trong khoảng niên hiệu Khoan Văn (寛文) thì ngôi già lam hầu như đã được phục hồi lại y như cũ. Trong khuôn viên chùa hiện có 24 ngôi tháp, gồm những ngôi mộ của những bậc danh tướng đương thời, ngoài ra còn có rất nhiều bia tháp, mộ phần khác nữa. Quần thể kiến trúc chùa gồm Sắc Sứ Môn (勅使門), Tam Môn (三門), Phật Điện (佛殿), Pháp Đường (法堂) và khá nhiều ngôi viện nhỏ như Dưỡng Đức Viện (養德院), Long Nguyên Viện (龍源院), Hoàng Mai Viện (黃梅院), Đại Từ Viện (大慈院), Thoại Phong Viện (瑞峰院), Hưng Lâm Viện (興臨院), Chánh Thọ Viện (正受院), Tam Huyền Viện (三玄院), Chân Châu Viện (眞珠院), Đại Tiên Viện (大仙院), Phương Xuân Viện (芳春院), Tụ Quang Viện (聚光院), Tổng Kiến Viện (總見院), Cao Đồng Viện (高桐院), Ngọc Lâm Viện (玉林院), Long Quang Viện (龍光院), Tùng Nguyên Viện (松源院), v.v. Hiện chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật thuộc hạng quốc bảo cũng như tài sản văn hóa quan trọng như Đường Môn, Phương Trượng, đồ hình Quan Âm Vượn Hạc vẽ trên lụa với ngòi bút tài tình của họa sĩ Mục Khê (牧谿), tượng Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師) màu trên lụa, v.v.
(誵訛): khó thấy, khó khăn. Từ này được tìm thấy trong Hiển Hiếu Ngữ Lục (顯孝語錄) của Hư Đường Lục (虛堂錄), hay Cuồng Vân Tập (狂雲集) của Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481): “Giá cá hào ngoa thọ dụng đồ, cổ kim nạp tử nhất nhân vô, Tố Lão Từ Minh đích dụng tử, Lệ Chi hạt tử tước hà thô (這箇誵訛受用徒、古今衲子一人無、素老慈明的傳子、荔支核子嚼何麁, khó hiểu câu nầy mấy ai dùng, xưa nay tu sĩ chẳng người thông, Thanh Tố chơn truyền Từ Minh ấy, liệu ăn hạt vải thấu trong lòng).” Hay như trong bài Tiền An Cư Nhật Cúng Cưu Văn (前安居日供鬮文) của Linh Phong Ngẫu Ích Đại Sư Tông Luận (靈峰蕅益大師宗論) có câu: “Tiệm chí lưu bố, nhiên ký tái tam phiên độc, thâm tri thời tệ đa đoan, bất nhẫn tùy tục hào ngoa, cọng thực như lai chánh pháp (漸至流布、然旣再三飜讀、深知時弊多端、不忍隨俗誵訛、共蝕如來正法, lưu truyền từ từ, rồi lại ba lần đọc kỹ, biết rõ thời buổi rắc rối, không nên theo tục khó khăn, lại hưởng chánh pháp Như Lai).”
(懶衲): vị tu sĩ lười biếng (nghĩa đen). Từ nạp (衲) ở đây có nghĩa là áo được ghép lại từ nhiều mảnh vải vụn. Như trong bài Tặng Tăng Tự Viễn Thiền Sư (贈僧自遠禪師) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có câu: “Tự xuất gia lai trường tự tại, duyên thân nhất nạp nhất thằng hưu (自出家來長自在、緣身一衲一繩休, tự xuất gia nay luôn tự tại, suốt đời một dây một áo thôi).” Từ đó, áo của người tu sĩ được gọi là nạp y (衲衣). Như trong Thiền Tông Tạp Độc Hải (禪宗雜毒海, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1278) quyển 4 có câu: “Nhất lãnh nạp y Đông hựu Hạ, nhiệt lai thoát khước lãnh lai xuyên (一領衲衣冬又夏、熱來脫卻冷來穿, một mảnh nạp y Đông lại Hạ, nóng thì cởi bỏ lạnh mặc vào).” Cho nên, nạp cũng là tiếng tự xưng của vị tu sĩ, có nghĩa là người thường mặc áo có ghép nhiều mảnh vải vụn. Một số từ thường dùng như lão nạp (老衲), nạp tăng (衲僧), nạp tử (衲子), bá nạp (百納), v.v. Như trong bài thơ Đề Hoành Sơn Tự (題橫山寺) của Đái Thúc Luân (戴叔倫, 732-789) nhà Đường có câu: “Lão nạp cúng trà oản, tà dương tống khách thuyền (老衲供茶碗、斜陽送客舟, lão nạp dâng trà chén, chiều tà tiễn khách thuyền).” Hay trong Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1553) quyển 23 có đoạn: “Cử túc hạ túc giai thị đạo tràng, động tĩnh khứ lai vô phi Phật sự, nhược ư nạp tăng môn hạ, nhất ngôn tương khế, thiên địa huyền thù (舉足下足皆是道塲、動靜去來無非佛事、若於衲僧門下、一言相契、天地懸殊, nâng chân hạ chân đều là đạo tràng, động tĩnh đến đi thảy là Phật sự, nếu trong môn hạ nạp tăng, một lời khế hợp, trời đất sai khác).” Trong bài thơ Thu Nhật Ức Lan Thượng Nhân (秋日憶暕上人) của Lý Đoan (李端, ?-?) nhà Đường lại có câu: “Vũ tiền phùng bá nạp, diệp hạ bế trùng quan (雨前縫百衲、葉下閉重關, trước mưa khâu bá nạp, dưới lá đóng cửa Thiền).” Hay trong Liêu Trai Chí Dị (聊齋誌異), chương Cái Tăng (丐僧) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh có diễn tả rằng: “Tế Nam nhất tăng, bất tri hà hứa nhân, xích túc y bá nạp (濟南一僧、不知何許人、赤足衣百衲, có một vị tăng ở Tế Nam, chẳng biết người vùng nào, đi chân không và mang áo bá nạp).” Trong Truy Môn Cảnh Huấn (緇門警訓, Taishō Vol. 48, No. 2023) quyển 5 có câu: “Vi chủ giả thảng tồn nhân nghĩa, cảm thập phương nạp tử chi vân trăn, nhược nãi tư thọ nhân tình, chiêu thiên lí ố danh chi viễn bá (爲主者倘存仁義、感十方衲子之雲臻、若乃私受人情、招千里惡名之遠播, làm người chủ nếu còn nhân nghĩa, cảm mười phương tăng chúng thảy quay về, nếu thọ nhân tình riêng tư, mang ngàn dặm tiếng xấu đi truyền bá).” Như vậy, lãn nạp ở đây là từ tự xưng rất khiêm tốn; như Thiền Sư Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481) của Nhật Bản có bút hiệu là Cuồng Vân Lãn Nạp (狂雲懶衲). Trong Lâm Gian Lục Hậu Tập (林間錄後集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1625) có câu: “Y phó tiểu nhi, đạo truyền lãn nạp, nãi nhĩ tương vi, cầu nhân vị pháp (衣付小兒、道傳懶衲、乃爾相違、求人爲法, y trao trẻ nhỏ, đạo truyền thầy lười, như vậy sai khác, tìm người vì đạo).” Hay trong Lô Sơn Thiên Nhiên Thiền Sư Ngữ Lục (廬山天然禪師語錄) quyển 15 có câu: “Vị liễu nhân duyên kim thượng tại, vô năng lãn nạp phó nhàn miên (未了因緣今尚在、無能懶衲付間眠, chưa rõ nhân duyên nay lại có, lão tăng phó mặc ngủ an nhàn).”
(日高, Nikkō, 1257-1314): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Liêm Thương, húy là Nhật Cao (日高), thông xưng là Y Hạ Công (伊賀公), Soái A Xà Lê (帥阿闍梨); tự là Tối Bạch (最白); xuất thân vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]); con của Đại Điền Thừa Minh (大田乘明). Ông đã từng theo tu học với Nhật Liên ở Thân Diên Sơn (身延山). rồi sau khi Nhật Liên qua đời, ông là người thường xuyên canh giữ ngôi tháp của thầy. Năm 1299, ông được bổ nhiệm làm trú trì đời thứ 2 của Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺). Tiếp theo, ông khai sáng Bổn Diệu Tự (本妙寺) trên tư dinh của Đại Điền Thừa Minh, và bắt đầu chế ra quy định một người chủ quyền cả hai chùa Bổn Diệu và Pháp Hoa. Hơn nữa, nhờ sự ủng hộ đắc lực của dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba), ông đã xác lập được thể chế giáo đoàn và cơ sở kinh tế vững chắc. Về sau, ông nhường chức trú trì lại cho Nhật Hựu (日祐), con nuôi của Thiên Diệp Dận Trinh (千葉胤貞). Trước tác của ông để lại có Nhật Cao Trí Văn (日高置文) 1 quyển, Nhật Cao Thân Trạng (日高申狀), Nhật Cao Nhượng Trạng (日高讓狀), v.v.
(日進, Nisshin, 1271-1346): vị tăng của Nhật Liên Tông Nhật Bản, sống vào khoảng cuối thời Liêm Thương và đầu thời đại Nam Bắc Triều, húy là Nhật Tâm (日心), Nhật Chân (日眞), Nhật Tấn (日進); thông xưng là Đại Tấn Công (大進公), Tam Vị Công (三位公), Đại Tấn A Xà Lê (大進阿闍梨); hiệu là Đại Tấn Viện (大進院); xuất thân vùng Cát Sức (葛飾, Katsushika), Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), con thứ 2 của Tằng Cốc Thứ Lang Vệ Binh Úy Giáo Tín (曾谷次郎衛兵尉敎信, tức Nhật Lễ [日禮]). Ông là một trong 18 vị lão tăng. Năm 1313, ông nhận lời phó chúc của Nhật Hướng (日向), trở thành vị tổ thứ 3 của Cửu Viễn Tự (久遠寺, Kuon-ji) ở Thân Diên Sơn (身延山). Đến năm 1320, ông lên kinh đô chuyên sao chép các thư tịch Thánh giáo. Ông rất thâm giao với Nhật Hựu (日祐) ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng; và mở rộng giáo tuyến khắp các vùng Thượng Tổng, Hạ Tổng thông qua những lần đi tuần hóa của ông. Trước tác của ông để lại có Tam Quốc Phật Pháp Thạnh Suy Chi Sự (三國佛法盛衰之事) 1 quyển, Phá Tịnh Độ Nghĩa Luận Pháp Hoa Chánh Nghĩa (破淨土義論法華正義) 1 quyển, Nhật Liên Thánh Nhân Ngự Hoằng Thông Thứ Đệ (日蓮上人御弘通次第), v.v.
(法名): tên gọi do người Phật tử thọ trì sau khi quy y Phật Giáo, còn gọi là Pháp Hiệu (法號), Pháp Húy (法諱), Giới Danh (戒名). Đối với tăng lữ, đây là tên gọi do vị thầy ban cho sau khi cử hành lễ xuất gia. Đối với người Phật tử tại gia, đây là tên gọi được ban cho sau khi quy y, thọ giới, hay khi tiến hành tang lễ. Pháp Danh còn là biểu tượng thiêng liêng đánh dấu bước thay đổi cuộc sống tâm linh của người Phật tử khi thật sự bước chân vào Đạo. Đối với thế tục, khi con người mới sinh ra được cha mẹ đặt cho cái tên, đó là Tục Danh (俗名); khi vị ấy chuyển hóa tâm thức, quyết định quy y theo Phật Giáo, có nghĩa là được sanh ra lần thứ hai; tên gọi lúc này là Pháp Danh. Nó thể hiện việc xuất gia hay quy y trở thành đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni, p: Sakyamuni,釋迦牟尼); cho nên đối với người xuất gia, thường có chữ “Thích (釋)” đi theo với Pháp Danh như Thích Từ Thiện (釋慈善), v.v. Về phía Phật tử tại gia, do có khác nhau về giới tính, tuổi tác; vì vậy sau Pháp Danh thường có thêm các danh hiệu khác như Cư Sĩ (居士), Tín Sĩ (信士), Đại Tỷ (大姉), Tín Nữ (信女), Đồng Tử (童子), Đồng Nữ (童女), v.v.; như Thanh Liên Cư Sĩ (青蓮居士), Chân Tâm Tín Nữ (眞心信女), v.v. Đối với truyền thống đang hiện hành của Việt Nam, Pháp Danh có 2 chữ; chư Tăng xuất gia thường có chữ “Thích” trước Pháp Danh, như Thích Huệ Học (釋惠學), v.v.; chư Ni xuất gia thường có chữ “Thích Nữ (釋女)” trước Pháp Danh, như Thích Nữ Huệ Học (釋女惠學), v.v. Cách đặt Pháp Danh được tuân theo thứ tự của các chữ trong các bài kệ do chư vị tổ đức thuộc dòng phái đặt ra. Như Môn Phái Thập Tháp Di Đà ở Bình Định dùng bài kệ của Thiền Sư Vạn Phong Thời Ủy: “Tổ đạo giới định tông, phương quảng chứng viên thông, hành siêu minh thật tế, liễu đạt ngộ chơn không, như nhật quang thường chiếu, phổ châu lợi nhân thiên, tín hương sanh phước tuệ, tương kế chấn từ phong (祖道戒定宗、方廣證圓通、行超明寔際、了達悟眞空、如日光常照、普周利人天、信香生福慧、相繼振慈風).” Trong khi đó, Môn Phái Liễu Quán tại Huế thì đặt Pháp Danh theo bài kệ của Tổ Sư Thật Diệu Liễu Quán (實妙了觀, 1670-1742): “Thật tế đại đạo, tánh hải thanh trừng, tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phong, giới định phước tuệ, thể dụng viên thông, vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công, truyền trì diệu lý, diễn sướng chánh tông, hành giải tương ưng, đạt ngộ chơn không (實際大道、性海清澄、心源廣潤、德本慈風、戒定福慧、體用圓通、永超智果、密契成功、傳持妙里、演暢正宗、行解相應、達悟眞空).” Môn Phái Quốc Ân có bài kệ của Tổ Đạo Mân rằng: “Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên, minh như hồng nhật lệ trung thiên, linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ, chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền (道本原成佛祖先、明如紅日麗中天、靈源廣潤慈風溥、照世眞燈萬古懸).” Tại Quảng Nam, Dòng Chúc Thánh thì dùng bài kệ truyền thừa pháp phái của Tổ Minh Hải Pháp Bảo: “Minh thật pháp toàn chương, ấn chơn như thị đồng, chúc thánh thọ thiên cữu, kỳ quốc tộ địa trường, đắc chánh luật vi tuyên, tổ đạo hành giải thông, giác hoa Bồ Ðề thọ, sung mãn nhân thiên trung (明寔法全章、印眞如是同、祝聖壽天久、祈國祚地長、得正律爲宣、祖道行解通、覺花菩提樹、充滿人天中).” Ngoài ra, còn một số bài kệ khác như bài của ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc: “Minh chân như bảo hải, kim tường phổ chiếu thông, chí đạo thành chánh quả, giác ngộ chứng chơn không (明眞如寶海、金祥普照通、至道成正果、覺悟證眞空).” Hay bài kệ của ngài Tri Giáo Nhất Cú: “Tịnh trí viên thông tông từ tánh, khoan giác đạo sanh thị chánh tâm, mật hạnh nhân đức xưng lương tuệ, đăng phổ chiếu hoằng pháp vĩnh trường (淨智圓通宗慈性、寬覺道生是正心、密行仁德稱良慧、燈普照宏法永長)”, v.v. Đặc biệt, việc đặt Pháp Danh ở Nhật Bản có nét đặc trưng hoàn toàn khác với các nước Phật Giáo Đại Thừa. Tùy theo tông phái khác nhau mà Pháp Danh cũng được đặt dưới nhiều hình thức khác nhau, dưới tên gọi là Giới Danh (戒名, kaimyō). Nhìn chung, Giới Danh của Nhật Bản được kết cấu bởi ít nhất 3 yếu tố: Viện Hiệu (院號, ingō) hay Viện Điện Hiệu (院殿號, indonogō), Đạo Hiệu (道號, dōgō) và Vị Hiệu (位號, igō). Viện Hiệu được dùng cho những người trong lúc sanh tiền có cống hiến to lớn đối với tự viện, Phật Giáo, xã hội. Tỷ dụ như lịch đại chư vị Tướng Quân dưới thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi, 1392~1573) và Giang Hộ (江戸, Edo, 1600~1867) đều được đặt cho Viện Hiệu hay Viện Điện Hiệu; như trường hợp Tướng Quân Chức Điền Tín Tú (織田信秀, Oda Nobuhide, 1510-1551) có Giới Danh là Vạn Tùng Tự Đào Nham Đạo Kiến (萬松寺桃巖道見); Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Tình (足利義晴, Ashikaga Yoshiharu, 1511-1550) là Vạn Tùng Viện Hoa Sơn Đạo Chiếu (萬松院曄山道照), hay Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga, 1534-1582) có Giới Danh đặc biệt là Tổng Kiến Viện Điện Tặng Đại Tướng Quốc Nhất Phẩm Thái Nham Tôn Nghi (總見院殿贈大相國一品泰巖尊儀), v.v. Vốn phát xuất từ Trung Quốc, được chư vị Thiền tăng truyền vào Nhật, Đạo Hiệu là một tên khác được đặt trước Pháp Danh; như Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481) có Đạo Hiệu là Nhất Hưu. Trừ Luật Tông, Tịnh Độ Chơn Tông ra, các tông phái như Chơn Ngôn Tông, Thiên Thai Tông, Tịnh Độ Tông, Lâm Tế Tông, Tào Động Tông, Nhật Liên Tông đều dùng đến Đạo Hiệu này. Vị Hiệu là tên gọi được đặt sau cùng của Giới Danh để phân biệt về giới tính, tuổi tác, v.v. Đối với trường hợp thành nhân (người lớn), một số Vị Hiệu được dùng như Tín Sĩ (信士), Tín Nữ (信女), Thanh Tín Sĩ (清信士), Thanh Tín Nữ (清信女), Cư Sĩ (居士), Đại Tỷ (大姉), Đại Cư Sĩ (大居士), Thanh Đại Tỷ (清大姉), Thiền Định Môn (禪定門, dành cho chư Tăng), Thiền Định Ni (禪定尼, dành cho chư Ni). Đối với trường hợp các em nhỏ thì có Thủy Tử (水子, dùng cho các thai nhi bị lưu sản, sút sảo tảo sa); Anh Nhi (嬰兒) Anh Tử (嬰子), Anh Nữ (嬰女) dùng cho các trẻ nhỏ đang còn bú mẹ; Hài Tử (孩子), Hài Nữ (孩女) dùng cho các em nhỏ khoảng 2-3 tuổi; Đồng Tử (童子), Đồng Nữ (童女) dùng cho các em từ 4-14 tuổi, v.v.
(三要): 3 yếu tố quan trọng, có 2 nghĩa. (1) Đạo gia cho Tam Yếu là tai, mắt và miệng. Như trong Âm Phù Kinh (陰符經) có đoạn: “Cửu Khiếu chi tà, tại hồ Tam Yếu, khả dĩ động tĩnh (九竅之邪、在乎三要、可以動靜, Chín Lỗ sai lầm, ở ba điểm chính, có thể động tĩnh).” Thái Công giải thích rằng: “Tam Yếu giả, nhĩ, mục, khẩu dã (三要者、耳、目、口也, ba nơi trọng yếu là tai, mắt, miệng).” (2) Chỉ cho 3 yếu tố quan trọng trong mỗi một huyền môn, do Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền cử xướng. Đó là: (a) Trong lời nói không có phân biệt tạo tác; (b) Chư vị thánh đều phải vào thẳng chỗ huyền áo; (c) Dứt bặt ngôn ngữ. Trong Thiền Gia Quy Giám (禪家龜鑑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1255) giải thích rằng: “Tham Thiền tu cụ tam yếu, nhất hữu đại tín căn, nhị hữu đại phẫn chí, tam hữu đại nghi tình (參禪須具三要、一有大信根、二有大憤志、三有大疑情, tham Thiền phải có đủ ba yếu tố chính, một là có tín căn lớn, hai là có chí giận dữ lớn, ba là có nghi tình lớn).” Hay trong Thiền Lâm Loại Tụ (禪林類聚, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 67, No. 1299) quyển 6, phần Thị Chúng (示眾), lại có đoạn: “Phù nhất cú ngữ tu cụ Tam Huyền môn, nhất huyền môn tu cụ Tam Yếu, hữu quyền hữu dụng (夫一句語須具三玄門、一玄門須具三要、有權有用, phàm một câu nói phải có Ba Huyền môn, một huyền môn phải có Ba Yếu, có quyền có dụng).”
(痛處錐): mũi chùy đâm vào chỗ đau. Cụm từ nầy thỉnh thoảng thấy có xuất hiện trong các ngữ lục Thiền xưa nay như Đại Ứng Lục (大應錄), Hư Đường Lục (虛堂錄), Bảo Lâm Ngữ Lục (寳林語錄). Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師) cũng có dùng nhiều cụm từ nầy trong bộ Bích Nham Lục (碧巖錄) của mình. Như trong tác phẩm Cuồng Vân Tập (狂雲集, Kyōunshū) của Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481) có câu: “Từ Minh hiệp lộ đắc Dương Kì, địch diện chi cơ thống xứ chùy, Thiên Trạch sầu ngâm phong nguyệt khách, tú liêm xuy động nhuyễn phong bài (慈明狹路得楊岐、覿面之機痛處錐、天澤愁吟風月客、繡簾吹動軟風扉, Từ Minh ngõ hẹp gặp Dương Kì, căn cơ xáp mặt đau mũi chùy, Thiên Trạch buồn ngâm trăng gió khách, rèm thưa thổi động cửa gió lay).” Hay trong (林間錄, CBETA, No. 1624) cũng có câu: “Lương ôn viễn cận chuyển tăng nghi, bất đáp đương cừ thống xứ chùy, thượng trục tiểu nhi tranh vị dĩ, Trọng Ni hà độc cổ nan tri (涼溫遠近轉增疑、不答當渠痛處錐、尚逐小兒爭未已、仲尼何獨古難知, gần xa tươi mát càng thêm nghi, chẳng đáp phải chịu đau mũi chùy, lại đuổi lũ nhóc tranh giành mãi, Trọng Ni xưa mãi chẳng hay gì).”
(無極): có hai nghĩa chính. (1) Vô cùng tận, không biên giới. Như trong Tả Truyện (左傳), chương Hy Công Nhị Thập Tứ Niên (僖公二十四年), có câu: “Nữ đức vô cực, nữ oán vô chung (女德無極、女怨無終, đức của người nữ không cùng, nỗi oán hờn của người nữ không tận).” Hay trong bài Phụng Hòa Đậu Dung Châu (奉和竇容州) của Nguyên Chẩn (元稹, 779-831) nhà Đường cũng có đoạn: “Tự thán phong ba khứ vô cực, bất tri hà Nhật Hựu tương phùng (自歎風波去無極、不知何日又相逢, tự than phong ba đi hoài mãi, biết đến ngày nao lại trùng phùng).” (2) Các triết học gia cổ đại Trung Quốc cho rằng Vô Cực là bản nguyên hình thành vũ trụ vạn vật; vì nó không hình tượng, không âm thanh cũng như màu sắc, vô thỉ vô chung, chẳng thể nào đặt tên, nên gọi là Vô Cực. Trong tác phẩm Thái Cực Đồ Thuyết (太極圖說) của Châu Đôn Gi (周敦頤, 1017-1073) nhà Tống giải thích rằng: “Vô Cực nhi Thái Cực, Thái Cực động nhi sanh dương, động cực nhi tĩnh, tĩnh nhi sanh âm, … âm dương nhất Thái Cực dã, Thái Cực bổn Vô Cực dã (無極而太極、太極動而生陽、動極而靜、靜而生陰…陰陽一太極也、太極本無極也, Vô Cực mà Thái Cực, Thái Cực động mà sanh ra dương, động đến tận cùng thì tĩnh, tĩnh thì sanh âm, … âm dương hợp nhất là Thái Cực, Thái Cực vốn Vô Cực vậy).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập