"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Tôi không hóa giải các bất ổn mà hóa giải cách suy nghĩ của mình. Sau đó, các bất ổn sẽ tự chúng được hóa giải. (I do not fix problems. I fix my thinking. Then problems fix themselves.)Louise Hay
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhất Biến »»
(融通念佛宗, Yūzūnembutsushū): một trong 13 tông phái lớn của Nhật Bản, còn gọi là Đại Niệm Phật Tông (大念佛宗). Vị Tông Tổ sáng lập ra tông phái này Thánh Ứng Đại Sư Lương Nhẫn (聖應大師良忍). Năm 1117, ông cảm đắc được câu kệ của A Di Đà Như Lai là “nhất nhân nhất thiết nhân, nhất thiết nhân nhất nhân, nhất hạnh nhất thiết hạnh, nhất thiết hạnh nhất hạnh, thị danh tha lực vãng sanh, Thập Giới nhất niệm, dung thông niệm Phật, ức bách vạn biến, công đức viên mãn (一人一切人、一切人一人、一行一切行、一切行一行、是名他力徃生、十界一念、融通念佛、億百萬遍、功德圓滿, một người hết thảy mọi người, hết thảy mọi người một người, một hạnh hết thảy mọi hạnh, hết thảy mọi hạnh một hạnh, ấy tên tha lực vãng sanh, mười cõi một niệm, dung thông niệm Phật. trăm vạn ức biến, công đức tròn đầy)”, rồi lấy câu kệ này làm tư tưởng căn bản; và nhân lúc đó làm năm khai sáng Tông này. Khi ấy, ông lấy bức tranh vẽ tượng Phật ở giữa và có 10 vị Thánh cung quanh làm tượng thờ chính, và ngôi chùa trung tâm của Tông này là Đại Niệm Phật Tự (大念佛寺, Dainembutsu-ji), hiện tọa lạc tại Hirano-ku (平野區), Ōsaka-shi (大阪市). Vị Tông Tổ Lương Nhẫn sinh ra ở vùng Phú Đa (富多), Quận Tri Đa (知多郡, Chita-gun), Vĩ Châu (尾州, Bishū, thuộc Aichi-ken [愛知縣]). Năm lên 12 tuổi, ông lên xuất gia trên Duệ Sơn, làm vị tăng Hành Đường ở Đông Tháp. Nơi đây ông thường tham gia tu pháp môn niệm Phật không gián đoạn, nên đã tạo cơ hội bồi dưỡng thêm cho thiên tài về âm nhạc của Lương Nhẫn. Về sau, ông đến ẩn cư ở vùng Đại Nguyên (大原, Ōhara), hoàn thành phần Thanh Minh do Viên Nhân (圓仁, Ennin) truyền lại, và khai xướng ra pháp môn Dung Thông Niệm Phật với khúc hợp xướng mang tính âm nhạc. Sau ông lại được cảm đắc về giáo lý Tự Tha Dung Thông (自他融通) từ đức Di Đà Như Lai, và khai sáng ra Dung Thông Niệm Phật Tông. Từ đó tiếng tăm ông vang khắp, chúng đạo tục khắp các nơi tập trung theo ông rất đông. Pháp môn Dung Thông Niệm Phật của Lương Nhẫn được tổ chức theo cách ghi tên vào sổ danh bạ, nên mọi người được gọi là Đồng Chí. Còn xướng niệm Phật thì chủ trương có công đức dung thông với nhau, cả đời này và đời sau đều được lợi ích to lớn. Sau khi Lương Nhẫn qua đời, có Nghiêm Hiền (嚴賢, tức Lương Huệ [良惠]), Minh Ứng (明應), Quán Tây (觀西), Tôn Vĩnh (尊永), Lương Trấn (良鎭) kế thừa ông; nhưng đến thời Pháp Minh (法明, tức Lương Tôn [良尊]) tiếp nối Lương Trấn, thì ngọn pháp đăng bị tuyệt diệt trong khoảng thời gian 140 năm trường. Tuy nhiên, chính trong khoảng thời gian này, Dung Thông Niệm Phật Tông lại được truyền bá đến các địa phương khác nhờ các vị Thánh Niệm Phật (念佛聖) và Thánh Khuyến Tấn (勸進聖). Trong số đó có Đạo Ngự (道御, tức Viên Giác Thập Vạn Thượng Nhân [圓覺十萬上人]) đã khởi xướng ra Dung Thông Đại Niệm Phật Cuồng Ngôn (融通大念佛狂言, ngày nay gọi là Nhâm Sanh Cuồng Ngôn [壬生狂言]) ở Địa Tạng Viện (地藏院) thuộc vùng Nhâm Sanh (壬生) vào năm 1257, rồi Dung Thông Đại Niệm Phật Hội (融通大念佛會) ở Pháp Kim Cang Viện (法金剛院) vào năm 1276, cũng như tại Thanh Lương Tự (清涼寺) vào năm 1279. Thêm vào đó, vị Tổ sư của Thời Tông (時宗, Jishū) là Nhất Biến (一遍, Ippen) cũng được gọi là “vị Thánh khuyên người Niệm Phật Dung Thông”. Nguyên lai, Dung Thông Niệm Phật của Lương Nhẫn là hình thức niệm Phật hợp xướng với số đông người, từ việc thể nghiệm sự cảm đắc mang tính huyễn mộng bằng cảm giác thông qua âm điệu phong phú, và cuối cùng trở thành Đại Niệm Phật. Hơn nữa, vì pháp môn này phù hợp với hoạt động quyên góp tiền để xây dựng chùa chiền, nên Tông này đã vượt qua các tông phái khác để lan truyền rộng rãi khắp toàn quốc nước Nhật; từ đó tập đoàn Dung Thông Niệm Phật cũng được hình thành ở các địa phương. Thư tịch hiện tồn nói lên sự hoạt động hưng thạnh rực rõ của tông phái này là Dung Thông Niệm Phật Duyên Khởi Hội Quyển (融通念佛緣起繪巻). Người có công lao to lớn trong việc lưu truyền di phẩm này là Lương Trấn. Kể từ năm 1382 cho đến 1423, trong vòng 42 năm trường, ở mỗi tiểu quốc trong nước Nhật đều được phân bố 1 hay 2 bản này. Những vị Thánh Khuyến Tấn tập trung theo Lương Trấn thì vẽ các bức tranh giải thích rõ về tác phẩm này, rồi khuyên mọi người tham gia vào Dung Thông Niệm Phật Tông; ghi tên những ai kết duyên với tông phái vào sổ danh bạ, và đem nạp vào Lưu Ly Đường (瑠璃堂) của Đương Ma Tự (當麻寺, Taima-ji) ở tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato). Những hành sự đáng lưu ý nhất hiện tại vẫn còn được tiến hành trong Dung Thông Niệm Phật Tông là Ngự Hồi Tại (御回在), Truyền Pháp (傳法). Về lễ Ngự Hồi Tại, hằng năm người ta thường lấy tượng thời chính của Tông này đem đi vòng quanh các nhà tín đồ để cầu nguyện cũng như cúng dường cho tổ tiên. Còn lễ Truyền Pháp thì chỉ giới hạn trong 2 ngày mồng 5 và mồng 7 hằng tháng. Khi ấy, các tự viện trở thành đạo tràng nghiêm tịnh, các tín đồ đệ tử tập trung về tham bái, lễ sám, dội nước lên mình, nghe pháp tu hành, thọ giới Viên Đốn, và được truyền trao cho pháp an tâm của Tông môn. Hiện tại, tông này có khoảng 357 ngôi chùa khắp nơi trong nước như Ōsaka-fu (大阪府), Kyoto-fu (京都府), Nara-ken (奈良縣), Mie-ken (三重縣), Hyōgo-ken (兵庫縣).
(敎信, Kyōshin, ?-866): vị Tăng chuyên tu niệm Phật sống vào đầu thời kỳ Bình An, húy là Giáo Tín (敎信), hiệu là Giáo Tín Sa Di (敎信沙彌), Hạ Cổ Giáo Tín (賀古敎信), A Di Đà Hoàn (阿彌陀丸). Ông vốn có vợ con ở vùng Hạ Cổ (賀古, Kako) thuộc vùng Bá Ma (播磨, Harima), sống cuộc đời chuyên làm thuê mướn cho người trong làng, hay khuân vác hành lý cho lữ khách. Ông thường xướng niệm Phật và khuyên mọi người trong làng tu theo mình. Với tư cách là bậc Thánh niệm Phật, chính cách sống của ông đã đem đến ảnh hưởng cho Thân Loan (親鸞, Shinran) cũng như Nhất Biến (一遍, Ippen), đặc biệt trường hợp của Thân Loan thì hình thành tư tưởng Phi Tăng Phi Tục.
(和讚, Wasan): một loại hình ca dao dưới hình thức tiếng Nhật gồm 75 điệu, dùng để tán thán chư Phật, Bồ Tát, giáo pháp và các vị tổ sư. Bài Chú Bổn Giác Tán (註本覺讚, Chūhonkakusan) của Lương Nguyên (良源, Ryōgen) sáng tác dưới thời Bình An trung kỳ là một tuyệt tác tối cổ. Về sau thì có Cực Lạc Quốc Di Đà Hòa Tán (極樂國彌陀和讚, Gokurakumidawasan), của Thiên Quán (千觀, Senkan), Cực Lạc Lục Thời Tán (極樂六時讚, Gokurakurokujisan) của Nguyên Tín (源信, Genshin), v.v., lấy trung tâm là Tịnh Độ Giáo mà sáng tác nên. Đến thời đại Liêm Thương thì có bài Tam Thiếp Hòa Tán (三帖和讚, Sanchōwasan) của Thân Loan (親鸞, Shinran) và các bài Hòa Tán của Thời Tông như Biệt Nguyện Tán (別願讚, Betsugansan) của Nhất Biến (一遍, Ippen) là tiêu biểu nhất; các bài này được lưu bố rộng rãi và đóng vai trò trung tâm ở các pháp hội. Ngoài ra vào thời Trung Đại còn có bài Hoằng Pháp Đại Sư Hòa Tán (弘法大師和讚, Kōbōdaishiwasan) và Tứ Tòa Giảng Hòa Tán (四座講和讚, Shizakōwasan) của Chơn Ngôn Tông, rồi Thái Tử Hòa Tán (太子和讚, Taishiwasan) của Thánh Đức Tông, v.v. Đến cuối thời Trung Đại thì phần nhiều các bài Hòa Tán đều có thêm niêm luật và được xướng họa. Về khúc tiết của chúng thì khác nhau tùy theo từng tông phái, nhưng chủ yếu bài nào cũng có âm điệu phách tiết cả. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài Hòa Tán do các cư sĩ tại gia làm nữa.
(念佛房, Nembutsubō, 1088-?): nhân vật tùy tùng theo Nhất Biến (一遍, Ippen), hiệu là Niệm Phật Phòng (念佛房). Vào tháng 2 năm 1274, khi Nhất Biến lên đường du hành hóa đạo, thì ông cũng đi theo dưới hình thức vị Tăng, và ông được xem như là người thường hậu hạ cho Nhất Biến. Vào tháng 6 cùng năm này, ông chia tay với Nhất Biến.
(梵宇): hay Phạm cung (梵宮), Phạm sát (梵刹), nghĩa là chùa, tự viện Phật Giáo. Phạm hay Phạn (s: brahman, 梵) nghĩa là tịch tĩnh, thanh tịnh, ly dục; cho nên nơi tịch tĩnh dành cho các vị xuất gia tu hành thanh tịnh, ly dục, được gọi là Phạm vũ, Phạm cung hay Phạm sát. Tống Chi Vấn (宋之問, khoảng 656-712) nhà Đường có làm bài Đăng Thiền Định Tự Các (登禪定寺閣, có tên khác là Đăng Tổng Trì Tự Các [登總持寺閣]) rằng: “Phạm vũ xuất tam thiên, đăng lâm vọng bát xuyên, khai khâm tọa tiêu hán, huy thủ phất vân yên, hàm cốc thanh sơn ngoại, hỗn trì lạc nhật biên, đông kinh dương liễu mạch, thiếu biệt dĩ kinh niên (梵宇出三天、登臨望八川、開襟坐霄漢、揮手拂雲煙、函谷青山外、昆池落日邊、東京楊柳陌、少別已經年, chùa cổ vút trời xanh, lên lầu ngắm núi sông, vén áo ngồi trời rộng, khua tay vẫy mây vờn, khe thẳm núi xanh vắng, hồ trăng trời lặn buông, kinh đô dương liễu rũ, xa cách đã mấy năm).” Hay như trong Pháp Bảo Đàn Kinh (法寳壇經), Phẩm Cơ Duyên (機緣品) có đoạn: “Thời Bảo Lâm Cổ Tự, tự tùy mạt binh hỏa, dĩ phế, toại ư cố cơ trùng kiến Phạm vũ (時寶林古寺、自隋末兵火、已廢、遂於故基重建梵宇, ngôi chùa cổ Bảo Lâm đương thời, bị nạn binh hỏa cháy rụi từ cuối thời nhà Tùy, nay đã hoang phế, bèn trùng kiến ngôi chùa mới trên nền cũ).” Trong bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩) của cuốn Hải Ngoại Kỷ Sự (海外紀事) do Tổ Thạch Liêm (石濂, 1633-1702, tức Thích Đại Sán [釋大汕]) sáng tác lại có đoạn: “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong (綠柳垂垂隱梵宮、鐘聲迢遞滿河風, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông)”; hay tả cảnh Chùa Linh Mụ (靈姥寺) ở cố đô Huế như “Phạm vương cung khuyết Nguyễn vương khai, ngọc điện châu môn sanh lục đài (梵王宮闕阮王開、玉殿朱門生綠苔, chùa xưa cung gác chúa Nguyễn khai, điện ngọc lầu son phủ rêu dài)”. Ngay tại cổng sơn môn của Đài Đồng Tự (壹同寺), Phố Tân Trúc (新竹市), Đài Loan (臺灣) có hai câu đối như sau: “Sơn khai giác lộ liên hoa xán, môn ánh kinh lâu Phạm vũ tân (山開覺路蓮花燦、門映經樓梵宇新, núi khai nẻo giác hoa sen rực, cửa rạng lầu kinh mới cảnh chùa).” Trong Tây Sương Ký (西廂記) cũng có câu rằng: “Sinh rằng quán khách lạ lùng, trộm nghe đây lối Phạm cung cảnh mầu.”
(心香): chỉ cho hương thơm ngát trong tâm, hương lòng. Hành giả Phật Giáo cần phải bày tỏ lòng chí thành chí kinh, vậy mới có thể cảm ứng lên chư Phật; việc dâng hương cúng Phật cũng giống như vậy, nên được gọi là tâm hương. Từ đó, có từ “nhất biện tâm hương (一瓣心香, một nén hương lòng).” Như trong bài Tướng Cung Tự Bi Minh (相宮寺碑銘) của Giản Văn Đế (簡文帝, tại vị 549-551) nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Song thư ý nhụy, thất độ tâm hương (窗舒意蕊、室度心香, cửa bày ý nhụy, thất ngát hương lòng).” Trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 40, bài Ngũ Đài Sơn Tạo Trầm Hương Văn Thù Bồ Tát Tượng Sớ (五臺山造沉香文殊菩薩像疏), có đoạn: “Xả tâm hương nhất thốn nhi giá trọng tam thiên, nghiêm Pháp Thân nhất mao nhi phước diên vạn kiếp (捨心香一寸而價重三千、嚴法身一毛而福延萬劫, bỏ hương lòng một tấc mà giá nặng ba ngàn, nghiêm Pháp Thân mảy lông mà phước dài muôn kiếp).” Hay trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 4 cũng có đoạn: “Sơ trừng tánh thủy, sạ nhiệt tâm hương, nhiên quang minh trí tuệ chi đăng, phụng Thiền duyệt Tô Đà chi vị, diệu hoa tề phóng, chơn quả thường viên, tu pháp cúng dĩ biểu thuần thành, vọng tôn thần chi thùy hâm hưởng (初澄性水、乍爇心香、然光明智慧之燈、奉禪悅酥酡之味、妙華齊放、眞果常圓、修法供以表肫誠、望尊神之垂歆饗, vừa trong nước tánh, mới ngút hương lòng, đốt tỏa sáng trí tuệ ngọn đèn, dâng Thiền duyệt Tô Đà hương vị, hoa mầu cùng thả, chánh quả thường tròn, bày pháp cúng thể hiện tâm thành, ngưỡng tôn thần xót thương hưởng thọ).”
(聖達, Shōtatsu, ?-?): vị Tăng của Dòng Tây Sơn (西山流) thuộc Tịnh Độ Tông, sống vào khoảng giữa thời Liêm Thương, húy là Thánh Đạt (聖達). Ông theo hầu Chứng Không (証空), học về Tịnh Độ Giáo của Dòng Tây Sơn. Ông đã từng nỗ lực bố giáo ở Thái Tể Phủ thuộc vùng Trúc Tiền (筑前, Chikuzen), rồi khai sáng Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in) ở vùng Phì Tiền (肥前, Hizen). Môn đệ của ông có Hiển Ý (顯意), Thánh Quán (聖觀); và ngay cả vị Tổ của Thời Tông là Nhất Biến (一遍, Ippen) cũng đã từng theo tu học với ông trong vòng 12 năm trường.
(s, p: aṇu-raja, aṇu-rajas, 微塵): nhỏ như bụi trần, âm dịch là A Noa (阿拏), A Nậu (阿耨); gọi riêng là vi (微), trần (塵); tức là sắc lượng nhỏ nhất do Nhãn Căn nhận lấy được. Cực nhỏ là đơn vị nhỏ nhất tồn tại của sắc pháp được thuyết trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 10, 12. Lấy một cái cực nhỏ làm trung tâm, bốn phương trên dưới tụ tập đồng nhất cực nhỏ mà thành một khối, tức gọi là vi trần. Hợp 7 cực vi thì thành một vi trần, 7 vi trần thành một kim trần (金塵), 7 kim trần thành một thủy trần (水塵). Ngoài ra, các kinh luận cũng lấy vi trần tỷ dụ cho số lượng cực nhỏ, lấy số vi trần để dụ cho số cực lớn. Trong Bắc Tề Thư (北齊書), Truyện Phàn Tốn (樊遜傳), có đoạn: “Pháp vương tự tại, biến hóa vô cùng, trí thế giới ư vi trần, nạp Tu Di ư thử mễ (法王自在、變化無窮、置世界於微塵、納須彌於黍米, Pháp vương tự tại, biến hóa vô cùng, bỏ thế giới trong hạt bụi, gom Tu Di nơi hạt lúa).” Hay trong Phật Thuyết Thập Địa Kinh (佛說十地經, Taishō Tripitaka Vol. 10, No. 287) quyển 6 cũng có đoạn: “Ư nhất mao đoan bách thiên ức, na dữu đa quốc vi trần số, như thị vô lượng chư như lai, ư trung an tọa thuyết diệu pháp (於一毛端百千億、那庾多國微塵數、如是無量諸如來、於中安坐說妙法, trên đầu mảy lông trăm ngàn ức, muôn vạn nước bụi trần số, như vậy vô lượng các Như Lai, trong đó an tọa thuyết pháp mầu).” Hoặc trong Tu Tập Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修習瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1083) có bài niệm hương rằng: “Thử nhất biện hương, bất tùng thiên giáng, khởi thuộc địa sanh, Lưỡng Nghi vị phán chi tiên, căn nguyên sung tắc, Tam Giới nhất khí, tài phân chi hậu, chi diệp biến mãn thập phương, siêu nhật nguyệt chi quang hoa, đoạt sơn xuyên chi tú lệ, tức Giới tức Định tức Tuệ, phi mộc phi hỏa phi yên, thâu lai tại nhất vi trần, tán xứ phổ huân pháp giới, nhiệt hướng lô trung, chuyên thân cúng dường, thường trú Tam Bảo, sát hải vạn linh, lịch đại Tổ sư, nhất thiết Thánh chúng, hà sa phẩm loại, u hiển Thánh phàm, tất trượng chơn hương, phổ đồng cúng dường (此一瓣香、不從天降、豈屬地生、兩儀未判之先、根源充塞、三界一氣、纔分之後、枝葉遍滿十方、超日月之光華、奪山川之秀麗、卽戒卽定卽慧、非木非火非煙、收來在一微塵、散處普薰法界、爇向爐中、專伸供養、常住三寶、剎海萬靈、歷代祖師、一切聖眾、河沙品類、幽顯聖凡、悉仗眞香、普同供養, một nén hương này, không từ trời xuống, sao thuộc đất sanh, Lưỡng Nghi [âm dương] chưa phân đầu tiên, nguồn căn đầy ắp, Ba Cõi một khí, mới chia sau đó, cành lá biến khắp mười phương, siêu trời trăng ấy rực sáng, vượt núi sông bao tú lệ, là Giới là Định là Tuệ, chẳng gỗ chẳng lửa chẳng khói, thâu vào trong một bụi trần, tan biến khắp xông pháp giới, rực hướng lò hương, thành tâm cúng dường, thường trú Tam Bảo, tất cả sinh linh, bao đời Tổ sư, hết thảy Thánh chúng, hà sa các loài, ẩn hiện Thánh phàm, đều nhờ chơn hương, cúng dường khắp cùng).”
(熱原の法難, Atsuhara-no-Hōnan): còn gọi là Pháp Nạn Gia Đảo (加島法難), vụ đàn áp môn đồ Nhật Liên Tông vào năm 1279 tại địa phương Nhiệt Nguyên (熱原, Atsuhara, thuộc Fuji-shi [富士市], Shizuoka-ken [靜岡縣]) thuộc tiểu quốc Tuấn Hà (駿河, Suruga). Trước đó, Nhật Hưng (日興), đệ tử của Nhật Liên, lấy Tứ Thập Cửu Viện (四十九院) ở Bồ Nguyên (蒲原, Kanbara) làm cứ điểm để truyền bá giáo lý của thầy ở khu vực Quận Phú Sĩ (富士郡, Fuji-gun), rồi thâu nhận nhóm Nhật Tú (日秀), Nhật Biện (日辨) ở Lang Tuyền Tự (瀧泉寺) làm đệ tử. Từ đó, nhóm này cũng truyền bá giáo lý của Nhật Liên đến tầng lớp nông dân ở địa phương này. Tuy nhiên, vì Hành Trí (行智), viện chủ của Lang Tuyền Tự, là người thuộc Tịnh Độ Tông, có quyền lực rất lớn trong vùng; nên ông có dự định muốn ức chế hoạt động của nhóm Nhật Tú và nông dân. Chuyện này đã sớm xảy ra, nông dân bị thương hại rất nhiều, rồi năm ấy nhân vụ cắt cỏ mà ông kiện lên chính quyền Liêm Thương về việc nhóm Nhật Tú phỉ báng các tông phái khác và cắt cỏ ruộng bừa bãi; cho nên 20 người nông dân bị bắt giam ở Liêm Thương. Lúc bấy giờ, Nhật Liên thay thế cho nhóm đệ tử Nhật Tú, viết bản trạng văn trần tình. Khi điều tra lấy khẩu cung, quan điều tra bắt mấy người nông dân niệm Phật; nhưng thay vào đó, họ lại xướng cao đề mục Kinh Pháp Hoa. Với kết quả đó, 3 người bị xử trảm, còn lại thì bị giam trong lồng tre. Nhân sự việc này, Nhật Liên kêu gọi toàn thể môn đồ của ông nhất tề đứng lên phản đối. Theo chỉ thị của Nhật Liên, nhóm Nhật Tú, Nhật Biện đến lánh nạn trong nhà tín đồ ở Hạ Tổng (下總, Shimōsa); và người bị hại chính là nông dân.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập