Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Hầu hết mọi người đều cho rằng sự thông minh tạo nên một nhà khoa học lớn. Nhưng họ đã lầm, chính nhân cách mới làm nên điều đó. (Most people say that it is the intellect which makes a great scientist. They are wrong: it is character.)Albert Einstein
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nhan Hồi »»
(覺如, Kakunyo, 1270-1351): vị Tăng của Chơn Tông sống vào khoảng cuối thời kỳ Liêm Thương và đầu thời Nam Bắc Triều, vị Tổ đời thứ 3 của Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji), húy là Tông Chiêu (宗昭), tên lúc nhỏ là Quang Tiên (光仙); thông xưng là Trung Nạp Ngôn (中納言); hiệu là Giác Như (覺如), Hào Nhiếp (毫攝); xuất thân vùng Kyoto, con trai đầu của Giác Huệ (覺惠) ở Bổn Nguyện Tự. Ông vốn tu học ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) thuộc vùng Cận Giang (近江, Ōmi) cũng như Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), rồi đến năm 1287 thì thọ lãnh giáo học với người cháu của Thân Loan (親鸞, Shinran) là Như Tín (如信). Năm 1290, ông tham bái những di tích của Thân Loan ở vùng Quan Đông (關東, Kantō). Vào năm 1310, ông làm chức Lưu Thủ canh giữ ngôi nhà mộ của Thân Loan, rồi từ đó đặt tên nơi đây là Bổn Nguyện Tự. Ông chủ trương mình là người kế thừa giáo lý chính thống của Thân Loan, và có phương hướng làm cho phát triển giáo đoàn Chơn Tông ở ngôi chùa này. Trước tác của ông có Thân Loan Thánh Nhân Hội Truyện (親鸞聖人繪傳) 2 quyển, Khẩu Truyền Sao (口傳鈔) 3 quyển, Thập Di Cổ Đức Truyện (拾遺古德傳) 9 quyển, Chấp Trì Sao (執持鈔) 1 quyển, Giáo Hành Tín Chứng Đại Ý (敎行信証大意) 1 quyển, Cải Tà Sao (改邪鈔) 1 quyển, Báo Ân Giảng Thức (報恩講式) 1 quyển, Nguyện Nguyện Sao (願願鈔) 1 quyển, v.v.
(菱川師宣, Hishikawa Moronobu, 1618-1694): nhà vẽ tranh Phù Thế Hội (浮世會, Ukyoe), sống vào khoảng đầu thời đại Giang Hộ, tục xưng là Cát Binh Vệ (吉兵衛), hiệu là Hữu Trúc (友竹); xuất thân vùng An Phòng (安房, Awa). Trong khoảng thời gian niên hiệu Vạn Trị (萬治, 1659-1661) hay Khoan Văn (寛文, 1661-1673), ông lên Giang Hộ, chế tác ra những loại tranh trên bảng gỗ và khai sáng ra lãnh vực mới của tranh Phù Thế Hội. trước tác của ông có rất nhiều như Mỹ Nhân Hội Tận (美人繪盡), v.v.
(靈光): ánh sáng, hào quang linh hiển; mọi người đều có Phật tánh, linh thiêng chiếu tỏ, thanh tịnh không ô nhiễm, thường phóng ra ánh sáng soi rọi. Như trong Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Ngữ Lục (百丈懷海禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1322) có đoạn: “Linh quang độc diệu, huýnh thoát căn trần, thể lộ chơn thường, bất cẩu văn tự, tâm tánh vô nhiễm, bổn tự viên thành, đản ly vọng duyên, tức như như Phật (靈光獨耀、迥脫根塵、體露眞常、不拘文字、心性無染、本自圓成、但離妄緣、卽如如佛, linh quang sáng tỏ, thoát xa căn trần, thể bày chơn thường, chẳng kẹt chữ nghĩa, tâm tánh không nhiễm, vốn tự viên thành, chỉ lìa giả duyên, là như như Phật).” Hay trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 35 cũng có đoạn: “Cổ điện vô Phật Phạm âm hà lai, mộng trung hoán tỉnh lâu các môn khai, linh quang nhất điểm tuyệt trần ai, diệu cổ đằng kim biến cửu cai (古殿無佛梵音何來、夢中喚省樓閣門開、靈光一點絕塵埃、耀古騰今遍九垓, cổ điện không Phật Phạm âm từ đâu, trong mộng chợt tỉnh lầu gác cửa bày, linh quang một điểm dứt bụi trần, sáng xưa chiếu nay biến khắp nơi).” Hoặc trong Tiêu Thích Kim Cang Kinh Khoa Nghi Hội Yếu Chú Giải (銷釋金剛經科儀會要註解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 24, No. 467) quyển 7 lại có đoạn: “Nhất điểm linh quang tắc thái hư, dã phi Thiền giáo dã phi Nho, đả thành nhất phiến thùy nhân hội, cụ nhãn hoàn tha đại trượng phu (一點靈光塞太虛、也非禪敎也非儒、打成一片誰人會、具眼還他大丈夫, một điểm linh quang khắp hư không, chẳng phải Thiền giáo cũng chẳng Nho, đánh thành một mảnh ai hiểu được, thấy rõ hoàn ra đại trượng phu).”
(s, p: Nanda, 難陀): ý dịch là Hoan Hỷ (歡喜), Hỷ Lạc (喜樂), còn gọi là Nan Nỗ (難努), Nan Đồ (難屠), Nan Đề (難提), là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật, vợ ông là Tôn Đà Lợi (s: Sundarī, 孫陀利), khác với Nan Đà Chăn Trâu (tức Mục Ngưu Nan Đà [牧牛難陀], ý dịch là Thiện Hoan Hỷ [善歡喜], tên của một vị Tỳ Kheo, nhân hỏi Phật về 11 việc thả trâu như thế nào; biết được Ngài là bậc Nhất Thiết Trí, sau theo Phật xuất gia, chứng quả A La Hán). Cha là vua Tịnh Phạn (s: Śudhodana, 淨飯), mẹ là Ma Ha Ba Xà Ba Đề (s: Mahāprajāpatī, 摩訶波闍波提). Tướng hảo của ông gần như Đức Phật, thân dài 1 trượng 5 tấc, tướng mạo đoan chính, có 30 tướng đẹp (chỉ thua đức Phật 2 tướng mà thôi). Chính vì có tướng hảo đoan nghiêm như vậy nên ông được gọi là Tôn Đà La Nan Đà (s: Sundarananda, 孫陀羅難陀) có nghĩa là Nan Đà đẹp như con gái. Tương truyền ông có tướng hảo đẹp như vậy là vì đời quá khứ thường lấy vàng ròng làm trang nghiêm các tượng Phật, rồi thắp đèn cúng Phật, nên có được quả báo như vậy. Sau khi đức Thế Tôn thành đạo, ông trở về thăm cố hương Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛). Khi ấy, Nan Đà là Hoàng thái tử và đang chuẩn bị kết hôn với người đẹp số một trong nước là nàng Tôn Đà Lợi, nhưng Đức Phật lại dùng phương tiện để khuyến dụ ông xuất gia. Ngài đã hóa độ ông xuất gia tại vườn Ni Câu Luật (s: nyagrodha, p: nigrodha, 尼拘律). Sau khi xuất gia xong, do vì quá nhớ đến vợ, ông vẫn thường trở về nhà thăm vợ. Về sau, ông được đức Phật dùng phương tiện hóa độ, giúp ông đoạn trừ ái dục, chứng quả A La Hán. Trong số các đệ tử Phật, ngài được tôn xưng là điều phục các căn đệ nhất. Về câu chuyện đức Phật hóa độ Nan Đà. Tương truyền một hôm nọ, đức Phật cùng với Tôn Giả A Nan đến khất thực tại ngay trước cửa nhà của Nan Đà. Ông nghênh đón, chuẩn bị dâng cơm vào bát cúng đường đức Phật. Bỗng nhiên Ngài chuyển thân chạy đi và nói với A Nan là bảo Nan Đà đem thức ăn đến. Nan Đà nghe vậy đem cơm đến chỗ Phật. Lập tức đức Phật cho người cạo đầu Nan Đà; như vậy trong tình huống đó, ông bị buộc phải xuất gia. Ngày hôm sau, Ngài cùng với đại chúng ra ngoài khất thực; chỉ mình Nan Đà ở nhà mà thôi, với ý định trốn thoát. Biết vậy, đức Thế Tôn bảo ông quét dọn sạch các cửa khắp bốn phía. Ông quét sạch cửa này thì cửa kia nhớp, cứ như vậy không thể nào làm cho sạch hết tất cả được. Nhân đó ông nghĩ rằng, nếu lúc này không chạy trốn thì không biết khi nào mới thoát được. Vì vậy, ông trốn thoát ra khỏi Tinh Xá, chạy đến giữa đường thì thấy đức Phật từ xa đi đến, bèn nép mình trốn sau gốc cây, không ngờ cây đó bay bổng lên không trung, khiến cho hành tung Nan Đà bị bại lộ. Thấy vậy đức Phật hỏi ông vì sao chạy trốn. Ông trả lời rằng vì quá nhớ thương vợ con ở nhà. Đức Phật dạy rằng: “Trước khi về nhà, ta sẽ dẫn con đi chơi hai nơi.” Ngài bèn dẫn ông lên trên Trời, ông thấy các nàng Thiên nữ trên đó, liền thốt lên rằng: “Quả đẹp như tiên nữ.” Nghe vậy, đức Phật hỏi ông rằng: “Thế thì nếu so sánh tiên nữ kia với vợ con ông, ai là người đẹp hơn ?” Nan Đà trả lời ngay rằng: “Tiên nữ kia đẹp hơn vợ con cả ngàn lần.” Sau đó, đức Thế Tôn lại dẫn ông đến một cung điện khác, bên trong có vàng ngọc rực rỡ, một đàn tiên nữ đang ngồi quây quần bên bức tượng, chứ không thấy Thiên tử. Ông bèn hỏi nguyên do, một tiên nữ trả lời rằng: “Cung điện này sẽ được cấp cho bào đệ của Phật là Nan Đà. Người đó đang thọ hưởng phước lạc dưới dương thế, sau khi mạng chung sẽ tiếp tục lên đây hưởng phước.” Nghe vậy, Nan Đà vui mừng tột đỉnh, tự biết mình là người có phước báo lớn. Tiếp theo, đức Thế Tôn lại đưa ông xuống cõi Địa Ngục. Ông vô cùng xót xa khi thấy các tội nhân nơi đây phải chịu khổ hình thê thảm. chân tay ông rã rời, run sợ không muốn ở lại lâu nơi đó. Đức Phật lại đưa ông đến một nơi khác, thấy có hai người ngục tốt đang ngồi ngủ gà ngủ gậc; nước dầu trong chảo cũng lạnh ngắt; lửa dưới chảo dầu chưa đỏ cháy. Lấy làm lạ, ông bạo gan hỏi ngục tốt nguyên do vì sao. Người lính cai ngục bảo rằng: “Chảo dầu sôi này vốn để dành cho Nan Đà, em của đức Phật. Ông ấy hiện tại đang hưởng phước trên dương gian, sau khi qua đời sẽ được sanh lên cõi Trời, hưởng phước lần nữa. Khi phước trên cõi Trời đã hết, ông ấy phải đọa xuống đây để chị quả báo tội nghiệp của nhiều đời trước.” Nghe lời này xong, Nan Đà kinh hãi đến nỗi lông tóc dựng đứng, run sợ không kể xiết, cùng Phật trở về Tinh Xá, cầu xin Ngài cứu thoát ra khỏi cảnh khổ của Địa Ngục. Từ đó, Ngài giải thích cho Nan Đà biết rõ tầm quan trọng và ý nghĩa xuất gia. Cho nên ông mới thật sự phát tâm xuất gia.
(中秋節): đây là ngày Tết truyền thống của nhân dân các nước Đông Á, vốn khởi nguồn từ Trung Quốc, nhằm vào ngày rằm tháng 8 Âm Lịch hằng năm. Theo Âm Lịch Trung Quốc, tháng Tám là tháng thứ hai của mùa Thu; xưa kia gọi là Trọng Thu (仲秋); sau này dân gian gọi là Trung Thu (中秋), Thu Tịch (秋夕), Bát Nguyệt Tiết (八月節), Bát Nguyệt Bán (八月半), Nguyệt Tịch (月夕), Nguyệt Tiết (月節). Hơn nữa, do vì vào lúc này mặt trăng tròn đầy, tượng trưng cho sự đoàn viên, nên có tên là Đoàn Viên Tiết (團圓節). Ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, các nước như Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, v.v., cũng xem Tết Trung Thu như là ngày Tết truyền thống của quốc gia. Từ ngữ “Trung Thu” được tìm thấy sớm nhất trong các thư tịch Chu Lễ (周禮), Lễ Ký (禮記), v.v. Như trong chương Nguyệt Lịnh (月令) của Lễ Ký có ghi rằng: “Trung Thu chi nguyệt dưỡng suy lão, hành mi chúc ẩm thực (仲秋之月養衰老、行糜粥飲食, tháng của giữa Thu dưỡng tuổi già, nấu cháu kê mà ăn uống).” Từ thời nhà Đường (唐, 618-907) trở về sau, Tết Trung Thu trở thành ngày Têt cố định. Truyền thuyết cho rằng vua Đường Huyền Tông Lý Long Cơ (唐玄宗李隆基, tại vị 658-762) mộng thấy đi chơi trên cung trăng, thưởng thức nhạc trời gọi là Nghê Thường Vũ Y Khúc (霓裳羽衣曲), từ đó dân gian bắt đầu thịnh hành tập tục Tết Trung Thu. Thông thường, người ta vẫn cho rằng lễ Tết này bắt đầu thịnh hành dưới thời nhà Tống (宋, 960-1279). Đến cuối thời nhà Nguyên (元, 1271-1368), khi khởi binh, Chu Nguyên Chương (朱元璋, tại vị 1368-1398) có bí mật lấy bánh Trung Thu làm tín hiệu “bát nguyệt thập ngũ nhật sát Thát Tử (八月十五日殺韃子, ngày Rằm tháng Tám giết quân Mông Cổ)”; cho nên vào năm 1368 (Hồng Võ [洪武] nguyên niên), Chu Nguyên Chương cho lấy bánh Trung Thu làm bánh ngọt thiết đãi quần thần. Vào thời nhà Minh (明, 1368-1644) và Thanh (清, 1616-1636), Tết Trung Thu đã trở thành một trong những ngày Tết truyền thống lớn nhất của Trung Quốc. Bộ Chánh Đức Giang Ninh Huyện Chí (正德江寧縣誌) có ghi lại rằng vào đêm Trung Thu, người dân Nam Kinh thường thưởng thức trăng Thu, cả nhà cùng nhau ngắm trăng được gọi là khánh đoàn viên (慶團圓), ngồi quanh quần ăn uống vui vẻ gọi là viên nguyệt (圓月), ra ngoài đi chơi các phố phường gọi là tẩu nguyệt (走月). Một trong những truyền thuyết nổi tiếng về nguồn gốc của Tết Trung Thu là Thường Nga Bôn Nguyệt (嫦娥奔月, Thường Nga [Hằng Nga] đùa giỡn với trăng). Tương truyền từ thời cổ đại xa xưa, anh hùng bắn mặt trời là Hậu Nghệ (后羿) cưới Hằng Nga làm vợ, trở thành đế vương, thường thi hành chính sách hung bạo, ác độc. Có một hôm nọ, Hậu Nghệ xin được một bao thuốc trường sinh bất tử từ tay Tây Vương Mẫu (西王母). Hậu Nghệ mang thuốc về nhà và cất vào trong một cái hộp. Hằng Nga biết được, sợ rằng sau khi uống thuốc này vào thì Hậu Nghệ sẽ trở thành trường sinh bất tử, làm cho muôn dân càng thống khổ hơn, bèn lấy toàn bộ thuốc ấy uống sạch, sau đó biến thành tiên nữ, bay lên trên cung trăng. Bá tánh sau khi biết Hằng Nga thành tiên bay lên cung trăng rồi, thiết bàn hương án dưới mặt trăng, cầu xin tiên nữ ban cho bình an, cát tường. Vì vậy có phong tục lạy mặt trăng vào dịp Tết Trung Thu. Mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều có những tập tục trong dịp Tết Trung Thu. Tại Trung Hoa, có một số phong tục chính như ngắm trăng Trung Thu, ăn Bánh Trung Thu, treo hay rước lồng đèn, đốt tháp đồ mã, v.v. Tập tục ngắm trăng được xem như là một trong những hoạt động truyền thống vào dịp này. Trong Lễ Ký có từ “Thu mộ tịch nguyệt (秋暮夕月)”, ý là bái tế Thần Mặt Trăng; vào lúc này thì thiết hương án để nghinh đón mùa lạnh và tế mặt trăng. Như trong Đông Kinh Mộng Hoa Lục (東京夢華錄) có ghi rằng: “Trung Thu dạ, quý gia kết sức đài tạ, dân gian tranh chiếm tửu lâu ngoạn nguyệt (中秋夜、貴家結飾台榭、民間爭占酒樓玩月, vào đêm Trung Thu, nhà cao sang thì trang trí đài cao, dân gian thì tranh nhau chiếm quán rượu để ngắm trăng).” Về Bánh Trung Thu, dân gian Trung Quốc có câu rằng: “Bát nguyệt thập ngũ nhật chánh viên, Trung Thu nguyệt bính hương hựu điềm (八月十五日正圓、中秋月餅香又甜, ngày Rằm tháng Tám trăng thật tròn, ăn bánh Trung Thu hương ngọt thơm).” Trong Mộng Lương Lục (夢梁錄) của Ngô Tự Mai (吳自牧, ?-?) nhà Nam Tống cho biết rằng Bánh Trung Thu đương thời là một loại thực phẩm điểm tâm. Sau này, loại bánh này được đem dùng ăn ngắm trăng và đã trở thành một món ăn không thể thiếu vào dịp lễ hội này. Đồng thời, Bánh Trung Thu cũng là lễ vật để liên lạc cảm tình giữa bằng hữu với nhau trong dịp Tết Trung Thu. Ngoài các loại bánh thông thường ra, tại Triết Giang (江浙) còn có Bánh Trung Thu Thịt Tươi (鮮肉月餅, Tiên Nhục Nguyệt Bính). Riêng tập quán đốt tháp vàng mã rất thịnh hành ở các vùng nông thôn của Phúc Kiến (福建), Giang Tây (江西), Quảng Đông (廣東), Quảng Tây (廣西), v.v. Thân của tháp được kết thành bởi những miếng gạch vỡ vụn, thân cây, cỏ bện; hình tròn, trên nhỏ dưới to, bên trong rỗng. Tại bán đảo Triều Tiên, lễ hội này được gọi là Thu Tịch (秋夕), Trọng Thu Tiết (仲秋節), Gia Bài (嘉俳), Trọng Thu (仲秋), Gia Bài Nhật (嘉俳日), Trọng Thu Giai Tiết (仲秋佳節). Nhân ngày này, người dân ở đây có phong tục thường đi tảo mộ, lấy các loại sản phẩm thu hoạch được để cúng tế tổ tiên, trở về quê thăm người thân, v.v. Đối với Nhật Bản, Tết Trung Thu được gọi là Thập Ngũ Dạ (十五夜, jūgoya), Trung Thu Danh Nguyệt (中秋の名月, chūshū-no-meigetsu), Vu Danh Nguyệt (芋の名月, imo-no-meigetsu). Người Nhật cũng có phong tục ngắm trăng gọi là nguyệt kiến (月見, tsukimi) và ăn loại bánh gọi là tsukimidango (月見團子, nguyệt kiến đoàn tử). Đặc biệt đối với Việt Nam, Tết Trung Thu đã trở thành ngày Tết long trọng của trẻ em, còn được gọi là Tết Trông Trăng hay Tết Thiếu Nhi, Tết Nhi Đồng. Trẻ em Việt Nam rất mong đợi được đón Tết này vì thường được người lớn tặng đồ chơi, thường là đèn ông sao, mặt nạ, đèn kéo quân, súng phun nước, v.v., rồi các thứ bánh như bánh nướng, bánh dẻo. Ở một số nơi, người ta còn tổ chức Múa Lân, Múa Sư Tử, Múa Rồng để các em vui chơi thỏa thích. Thi sĩ Tản Đà (傘沱, 1889-1939) có làm bài thơ về Trung Thu rằng: “Có bầu có bạn can chi tủi, cùng gió cùng mây thế mới vui, rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám, tựa nhau trông xuống thế gian cười.” Hay trong bài hát Rước Đèn Tháng Tám có câu như: “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp phố phường, lòng vui sướng với đèn trong tay, em múa ca trong ánh trăng rằm, đèn ông sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn bướm bướm, em rước đèn này đến cung trăng, đèn xanh lơ với đèn tím tím, đèn xanh lam với đèn trắng trắng, trong ánh đèn rực rỡ muôn màu.” Tết Trung Thu là một đề tài vô cùng phong phú cho các thi hào, văn sĩ. Như trong bài Thu Tiêu Nguyệt Hạ Hữu Hoài (秋宵月下有懷) của Mạnh Hạo Nhiên (孟浩然, 689-740) nhà Đường có câu: “Thu không minh nguyệt huyền, quang thái lộ triêm thấp, kinh thước thê vị định, phi oanh quyển liêm nhập (秋空明月懸、光彩露沾濕、驚鵲棲未定、飛螢捲簾入, trời Thu trăng sáng tỏ, rực rỡ sương thấm ướt, chim khách không bến đậu, đóm bay cuộn rèm thưa).” Thi nhân Trương Cửu Linh (張九齡, 678-740) nhà Đường lại diển tả một sắc thái khác qua bài Vọng Nguyệt Hoài Viễn (望月懷遠): “Hải thượng sanh minh nguyệt, thiên nhai cọng thử thời, tình nhân oán dao dạ, cánh tịch khởi tương tư (海上生明月、天涯共此時、情人怨遙夜、竟夕起相思, trên biển vừng trăng sáng, bờ trời cùng lúc này, tình nhân đêm não nuột, trọn buổi ôm tương tư).” Trong bài Bát Nguyệt Thập Ngũ Nhật Dạ Bồn Đình Vọng Nguyệt (八月十五日夜湓亭望月), thi hào Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường đã gởi gắm cả nỗi niềm hoài vọng của ông rằng: “Tích niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Khúc Giang trì bạn hạnh viên biên, kim niên bát nguyệt thập ngũ dạ, Bồn phố sa đầu thủy quán tiền, Tây Bắc vọng hương hà xứ thị, Đông Nam kiến nguyệt kỷ hồi viên, tạc phong nhất xuy vô nhân hội, kim dạ thanh quang tợ vãng niên (昔年八月十五夜、曲江池畔杏園邊、今年八月十五夜、湓浦沙頭水館前、西北望鄉何處是、東南見月幾回圓、昨風一吹無人會、今夜清光似往年, năm xưa đêm Rằm tháng Tám ấy, cạnh hồ Khúc Giang vườn mơ thơm, năm nay đêm Rằm tháng Tám đến, sông Bồn bãi cát quán nước còn, Tây Bắc trông quê nào chốn nhỉ, Đông Nam trăng ngắm mấy lần tròn, gió thổi hôm qua đâu ai gặp, đêm nay sáng tỏ tợ năm nào).” Vương Kiến (王建, ?-?), thi nhân nhà Đường, cũng chia xẻ cùng nỗi niềm qua bài Thập Ngũ Dạ Vọng Nguyệt (十五夜望月): “Trung đình địa bạch thọ thê nha, lãnh lộ vô thanh thấp quế hoa, kim dạ nguyệt minh nhân tận vọng, bất tri Thu tư lạc thùy gia (中庭地白樹棲鴉、冷露無聲濕桂花、今夜月明人盡望、不知秋思落誰家, giữa sân nền sáng quạ trên xa, sương lạnh im lìm ướt quế hoa, đêm nay trăng tỏ người ngắm trọn, nào hay Thu niệm rụng ai nhà).” Trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 30 có đoạn rằng: “Phỉ tấn phỉ tu siêu Thập Địa, vô văn vô đắc việt Tam Kỳ, Trung Thu ngọc thố đoàn đoàn thạnh, bán dạ khuê đồng toàn toàn khuy, nhập hải ba tư tham bất dĩ, nghĩ tương từ khí hoán Ma Ni (匪進匪修超十地、無聞無得越三祇、中秋玉兔團團盛、半夜圭桐旋旋虧、入海波斯貪不已、擬將瓷器換摩尼, chẳng tiến chẳng tu qua Mười Địa, không nghe không chứng vượt Ba Kỳ, Trung Thu trăng sáng tròn vành vạnh, đêm nửa ngô đồng gió vút vi, vào biển sóng cồn tham chẳng dứt, nghĩ đem đồ sứ đổi Ma Ni).” Hay trong Hoàn Khê Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (環溪惟一禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 70, No. 1388) quyển Thượng lại có câu: “Kiểu khiết Trung Thu nguyệt, thanh quang xứ xứ đồng (皎潔中秋月、清光處處同, sáng rực Trung Thu nguyệt, trong vắt chốn chốn cùng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.65 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập