Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngưu Đầu »»
(平田篤胤, Hirata Atsutane, 1776-1883): nhà Quốc Học, Thần Đạo, tư tưởng gia, y sĩ, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; xuất thân Phiên Cửu Bảo Điền (久保田藩, Kubota-han), Xuất Vũ (出羽, Dewa); sau khi thành nhân là con nuôi của Bình Điền Đốc Ổn (平田篤穩), nhà binh học của Phiên Tùng Sơn (松山藩, Matsuyama-han), Bị Trung (僃中, Bicchū). Tên lúc nhỏ của ông là Chánh Cát (正吉); thông xưng là Bán Binh Vệ (半兵衛); hiệu Khí Xuy Xá (氣吹舍), Đại Giác (大角), Đại Hác (大壑); gia hiệu là Chơn Quản Nãi Ốc (眞菅乃屋). Với tư cách là nhà y học, ông dùng tên Huyền Trác (玄琢) và sau khi qua đời thì được nhà Bạch Xuyên (白川, Shirakawa) tặng cho danh hiệu là Thần Linh Năng Chơn Trụ Đại Nhân (神靈能眞柱大人). Ông là người hình thành hệ thống gọi là Phục Cổ Thần Đạo (復古神道, tức Cổ Đạo Học), cùng với Hà Điền Xuân Mãn (河田春滿), Hạ Mậu Chơn Châu (加茂眞洲), Bổn Cư Tuyên Trường (本居宣長), được liệt vào Quốc Học Tứ Đại Nhân. (國學四大人). Ông học ở Giang Hộ, rồi sau Bổn Cư Tuyên Trường qua đời, ông tự xưng là “môn nhân sau khi chết” của vị này. Ông cấu tưởng vũ trụ luận mang tính quốc học vốn phát xuất từ Thiên Địa Khai Tị Luận (天地開闢論, luận trời đất mở mang), chỉnh lý trật tự các Thần và hình thành Thần Đạo Thần Học. Trên cơ sở xã hội quan mới mẻ thông qua khái niệm gọi là “sản linh (産靈)”, ông lấy quan niệm U Minh Giới (幽冥界, cõi sau khi chết) để thêm vào tính tôn giáo trong quốc học. Bình Điền Học Phái (平田學派) phát triển rộng rãi trong tầng lớp người nông dân giàu có cũng như Thần Quan, hình thành một học phái lớn ở trung tâm vùng Trung Bộ, Quan Đông và đã đem đến ảnh hưởng không nhỏ cho cuộc vận động Tôn Vương (尊王) vào cuối thời Mạc Phủ. Trước tác của ông có rất nhiều như Cổ Đạo Đại Ý (古道大意), Linh Năng Chơn Trụ (靈能眞柱), Cổ Sử Trưng (古史徴), Quỷ Thần Tân Luận (鬼神新論), Cổ Kim Yêu Mị Khảo (古今妖魅考), Mật Giáo Tu Sự Bộ Loại Cảo (密敎修事部類稿), Cổ Dịch Thành Văn (古易成文), Tiên Cảnh Dị Văn (仙境異聞), Cổ Dịch Đại Tượng Kinh Thành Văn (古易大象經成文), Y Xuy Ư Lữ Chí (伊吹於呂志), Thần Đồng Bằng Đàm Lược Ký (神童憑談略記), Cổ Dịch Đại Tượng Kinh Truyện (古易大象經傳), Đồng Mông Nhập Học Môn (童蒙入學門), Tam Dịch Do Lai Ký (三易由來記), Tam Thần Sơn Dư Khảo (三神山余考), Tượng Dịch Chánh Nghĩa (象易正義), Tục Thần Đạo Đại Ý (俗神道大意), Thái Hạo Cổ Dịch Truyện Thành Văn (太昊古易傳成文), Tây Tịch Khái Luận (西籍概論), Vụ Đảo Sơn U Hương Chơn Ngữ (霧島山幽郷眞語), Xuất Định Tiếu Ngữ (出定笑語), Xích Huyện Thái Cổ Truyện (赤縣太古傳), Khâm Mạng Lục (欽命錄), Ca Đạo Đại Ý (歌道大意), Thiên Trụ Ngũ Nhạc Khảo (天柱五嶽考), Thái Hạo Cổ Lịch Truyện (太昊古曆傳), Khí Xuy Xá Ca Văn Tập (氣吹舍歌文集), Cổ Lịch Nhật Bộ Thức (古曆日歩式), Chí Đô Năng Thạch Ốc (志都能石屋), Ngũ Nhạc Chơn Hình Đồ Thuyết (五嶽眞形圖說), Y Tông Trọng Cảnh Khảo (醫宗仲景考), Cát Tiên Ông Văn Túy (葛仙翁文粋), Xuân Thu Lịch Bổn Thuật Thiên (春秋曆本術篇), Đại Đạo Hoặc Vấn (大道或問), Cát Tiên Ông Truyện (葛仙翁傳), Hoàng Đế Truyện Ký (黃帝傳記), Hoằng Nhân Lịch Vận Ký Khảo (弘仁歷運記考), Ngưu Đầu Thiên Vương Lịch Thần Biện (牛頭天王曆神辨), v.v. Môn đệ của ông có Đại Quốc Long Chánh (大國隆正), Linh Mộc Trùng Dận (鈴木重胤), Lục Nhân Bộ Thị Hương (六人部是香), Sanh Điền Vạn (生田萬), Quyền Điền Trực Trợ (權田直助), v.v.
(s, p: bodhi, 菩提): ý dịch là đạo (道, con đường, giáo lý), giác (覺, giác ngộ, sự tỉnh thức), trí (智, trí tuệ) và thông thường nó chỉ cho chánh giác, quả vị của chư Phật, và phân biệt thành 3 loại bồ đề là Thanh Văn Bồ Đề (聲聞菩提, tức A La Hán Bồ Đề), Bích Chi Bồ Đề (辟支菩提, tức Bích Chi Phật Bồ Đề) và Chánh Đẳng Bồ Đề (正等菩提, tức Phật Bồ Đề). Hai loại đầu chỉ đoạn phiền não chướng mà thôi, còn Phật Bồ Đề thì đoạn tận phiền não và sở tri, cho nên được gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề (無上正等菩提), Vô Thượng Chánh Đẳng Giác (無上正等覺), Vô Thượng Chánh Chơn Đạo (無上正眞道), A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (阿耨多羅三藐三菩提), Chánh Đẳng Bồ Đề (正等菩提), v.v. Trong Đại Thừa Phật Giáo thì chỉ đề cập đến Phật Bồ Đề mà thôi, còn hai loại kia rất ít khi thấy. Thiền Sư Huệ Trung (慧忠, 683-769), vị tổ thứ 6 của Ngưu Đầu Tông, có bài kệ an tâm rằng: “Nhân pháp song tịnh, thiện ác lưỡng vong, chơn tâm chơn thật, Bồ Đề đạo tràng (人法雙淨、善惡兩忘、眞心眞實、菩提道塲, người pháp vắng lặng, thiện ác đều quên, chơn tâm chân thật, Bồ Đề đạo tràng).”
(大明法師, Daimyō Hōshi, ?-?): hay còn gọi là Quýnh Pháp Sư (炅法師), chính là thầy của Ngưu Đầu Pháp Dung (牛頭法融, 594-657), người sau này được đưa vào hệ Thiền Tông. Ông vốn là học giả của Tam Luận Tông, sống dưới thời Tùy Đường, đã từng tu học với Pháp Lãng (法朗, 507-581) ở Hưng Hoàng Tự (興皇寺), Dương Đô (楊都, Nam Kinh). Sau đó ông vào Mao Sơn (茅山, cách 45 dặm về phía đông nam Huyện Cú Dung, Giang Tô), chuyên tâm hoằng dương Trung Luận (中論) và cho đến cuối đời không một lần hạ sơn. Môn hạ của ông có Huệ Hạo (慧暠), Pháp Mẫn (法敏), Huệ Lăng (慧稜), Huệ Tuyền (慧璿), v.v.
(地府): còn gọi là Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), chỉ dưới lòng đất, tên gọi khác của Địa Ngục. Tại Trung Quốc, phần lớn các điển tịch thần thoại cổ đại cũng như của Phật Giáo đều có đề cập đến tên gọi Âm Tào Địa Phủ. Người dân Trung Quốc chia thế giới vạn vật làm hai cực: đó là học thuyết âm dương, là thành phần quan trọng của học thuyết cổ đại Trung Quốc; như Trời (dương) và Đất (âm), nam (dương) và nữ (âm), mặt trời (dương) và mặt trăng (âm). Hơn nữa, tại Trung Quốc còn có học thuyết Ba Cõi: trên trời, con người và địa ngục. Họ cho rằng mỗi con người đều có linh hồn, 3 hồn hay 7 hồn. Sau khi con người chết đi, trước hết sẽ đọa xuống cõi Âm Tào Địa Phủ để chịu sự xét xử, thọ nhận quả báo, hình phạt; được vị phán quan cõi âm là Diêm La Vương (閻羅王) phán xét. Nếu ai trên dương gian làm việc thiện, tu nhân tích đức, sẽ đắc đạo thành tiên, sanh về cõi trời, được trường sanh bất tử. Nếu người chuyên làm việc ác, sẽ bị trừng phạt trong 18 tầng Địa Ngục dưới Âm Phủ. Người trung quốc xưa cho rằng trên trời có Ngọc Hoàng Thượng Đế chưởng quản, ở phương Tây có Phật Tổ Như Lai, trên đời có Hoàng Đế cai trị; còn cõi âm thì có Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cũng như các vua khác chủ quản. Theo truyền thuyết, người chưởng quan tối cao cõi Địa Phủ là Thiên Tề Nhân Thánh Đại Đế (天齊仁聖大帝), cai quản toàn thể sanh linh vạn vật. Kế đến là Bắc Âm Phong Đô Đại Đế (北陰酆都大帝). Sau đó có các Quỷ Đế (鬼帝, vua quỷ) ở 5 phương: Đông Phương Quỷ Đế Thái Uất Lũy (東方鬼帝蔡鬱壘), còn gọi là Thần Trà (神荼), cai quản Quỷ Môn Quan (鬼門關) ở Đào Chỉ Sơn (桃止山); Tây Phương Quỷ Đế Triệu Văn Hòa (西方鬼帝趙文和), còn gọi là Vương Chân Nhân (王真人), cai quản Ba Trủng Sơn (嶓塚山); Bắc Phương Quỷ Đế Trương Hành (北方鬼帝張衡), còn gọi là Dương Vân (楊雲), cai quản La Phong Sơn (羅酆山); Nam Phương Quỷ Đế Đỗ Tử Nhân (南方鬼帝杜子仁), cai quản La Phù Sơn (羅浮山); Trung Ương Quỷ Đế Chu Khất (中央鬼帝週乞), còn gọi là Khể Khang (稽康), cai quản Bão Độc Sơn (抱犢山). Bên dưới là 6 vị trời La Phong (羅酆), tức là những vị Thủ Cung Thần (守宮神), gồm: Trụ Tuyệt Âm Thiên Cung (紂絕陰天宮), Thái Sát Lượng Sự Tông Thiên Cung (泰煞諒事宗天宮), Minh Thần Nại Phạm Võ Thành Thiên Cung (明晨耐犯武城天宮), Điềm Chiêu Tội Khí Thiên Cung (恬昭罪氣天宮), Tông Linh Thất Phi Thiên Cung (宗靈七非天宮), Cảm Ty Liên Uyển Lũ Thiên Cung (敢司連宛屢天宮). Tuy nhiên, truyền thuyết cho rằng chốn Âm Tào Địa Phủ là do Thập Điện Diêm La Vương (十殿閻羅王) thống quản: Tần Quảng Vương (秦廣王), Sở Giang Vương (楚江王), Tống Đế Vương (宋帝王), Ngũ Quan Vương (五官王), Diêm La Vương (閻羅王), Bình Đẳng Vương (平等王), Thái Sơn Vương (泰山王), Đô Thị Vương (都市王), Biện Thành Vương (卞城王), Chuyển Luân Vương (轉輪王). Dưới Thập Điện Diêm La Vương còn có các vị thần khác như Thủ Tịch Phán Quan Thôi Phủ Quân (首席判官崔府君), Chung Khôi (鍾魁), Hắc Bạch Vô Thường (黑白無常), Ngưu Đầu Mã Diện (牛頭馬面), Mạnh Bà Thần (孟婆神), v.v.
(鶴林玄素, Gakurin Genso, 668-752): vị tăng của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, pháp từ của Trí Uy (智威), vị tổ đời thứ 5 của Ngưu Đầu Tông, tự là Đạo Thanh (道清), họ Mã (馬), cho nên ông thông xưng là Mã Tố (馬素), xuất thân Diên Lăng (延陵), Nhuận Châu (潤州, Tỉnh Giang Tô). Ông xuất gia ở Trường Thọ Tự (長壽寺) vùng Giang Ninh (江寧, Tỉnh Giang Tô) và sau khi thọ Cụ Túc giới xong, ông sống ẩn cư. Đến cuối đời, ông theo hầu hạ Trí Uy ở U Thê Tự (幽棲寺), Thanh Sơn (青山), thân hình khắc khổ. Trong khoảng thời gian niên hiệu Khai Nguyên (開元, 713-742), thể theo lời thỉnh cầu của vị tăng Uông Mật (汪密), ông đến Kinh Khẩu (京口) và đáp ứng sự khẩn thỉnh của vị quan trong quận Vi Tiển (微銑), ông đến sống tại Hạc Lâm Tự (鶴林寺) thuộc Hoàng Hạc Sơn (黃鶴山), Nhuận Châu (潤州). Vào ngày 11 tháng 11 năm thứ 11 (752) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông an nhiên thị tịch, hưởng thọ 85 tuổi. Tháp ông được dựng ở Tây Hoàng Hạc Sơn. Ông được ban cho thụy hiệu là Đại Luật Thiền Sư (大律禪師). Môn nhân của ông có Pháp Hải (法海), người biên tập bộ phận tối cổ của Lục Tổ Đàn Kinh Bản Đôn Hoàng. Lý Hoa (李華) soạn bia văn cho tháp của ông.
(降魔崇慧, Gōma Sūe, hậu bán thế kỷ thứ 8): vị tăng của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, sống vào khoảng giữa thời nhà Đường, pháp từ của Kính Sơn Pháp Khâm (徑山法欽), họ Chương (章), xuất thân Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang). Ông theo làm đệ tử của Pháp Khâm, tu về Thiền quán lẫn Mật Giáo. Ban đầu ông kết am tu ở Thiên Khoảnh Sơn (千頃山, Tỉnh Triết Giang), trì tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni (佛頂尊勝陀羅尼). Khoảng đầu niên hiệu Đại Lịch (大曆, 766), ông lên Kinh Sư (京師, Trường An), trú ở Chương Tín Tự (章信寺), đã từng tranh đua đạo lực với đạo sĩ Sử Hoa (史華) ở Thái Thanh Cung (太清宮) và thắng trận. Ông được ban cho hiệu là Hộ Quốc Tam Tạng (護國三藏), sắc chỉ trú trì An Quốc Tự (安國寺). Người đời thường gọi ông là Cân Tử Sơn Hàng Ma Thiền Sư (巾子山降魔禪師).
(慧方, Ehō, 629-695): vị tổ thứ 3 của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, người vùng Diên Lăng (延陵), Nhuận Châu (潤州, Giang Tô), họ Bộc (濮). Ông xuất gia ở Khai Thiện Tự (開善寺), rồi sau khi thọ Cụ Túc giới thì tập trung nghiên cứu sâu kinh luận. Sau đó, ông lên Ngưu Đầu Sơn (牛頭山), tham yết Thiền Sư Trí Nham (智巖), học các bí pháp. Trí Nham thấy căn cơ của ông có thể gánh vác chánh pháp, bèn trao truyền tâm ấn cho. Trong suốt hơn 10 năm tham học tại Ngưu Đầu Sơn, ông chưa hề hạ sơn lần nào, học chúng đến tham học rất đông. Sau ông phó chúc hậu sự cho Pháp Trì (法持), rồi tự vào trong núi ẩn tu. Vào năm đầu (695) niên hiệu Vạn Tuế (萬歳) đời Võ Hậu, ông thị tịch, hưởng thọ 67 tuổi đời và 40 hạ lạp.
(慧忠, Echū, 683-769): vị tăng của Ngưu Đầu Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, xuất thân vùng Thượng Nguyên (上元), Nhuận Châu (潤州, Giang Tô), họ Vương (王). Năm 23 tuổi, ông xuất gia tại Trang Nghiêm Tự (莊嚴寺), theo hầu hạ Trí Uy (智威) ở Ngưu Đầu Sơn (牛頭山) vùng Kim Lăng (金陵), và kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó, ông chia tay với thầy, đi du hóa khắp nơi, rồi đến trú tại Diên Tộ Tự (延祚寺). Thường ngày ông sống rất đơn giản, chỉ một bình bát và một y mà thôi. Ông lại được thỉnh về trú trì chùa cũ Trang Nghiêm Tự, khi ấy học chúng tập trung rất đông và người kế thừa dòng pháp có đến 30, 40. Đến tháng 6 năm thứ 4 (769) niên hiệu Đại Lịch (大曆), ông thị tịch, hưởng thọ 87 tuổi. Bộ Thích Môn Chánh Thống (釋門正統) quyển 8 cho rằng Nam Dương Huệ Trung Thiền Sư (南陽慧忠禪師) là nhân vật đồng nhất với ông, tuy nhiên hai nhân vật này hoàn toàn khác nhau.
(徑山法欽, Keizan Hōkin, 714-792): vị tăng của Ngưu Đầu Tông (牛頭宗) Trung Quốc, xuất thân Côn Sơn (崑山), Quận Ngô (呉郡, Tỉnh Triết Giang), còn gọi là Đạo Khâm (道欽), họ Chu (朱). Năm 28 tuổi, trên đường đi lên kinh đô, ông ghé qua tham yết Hạc Lâm Huyền Tố (鶴林玄素), rồi xuất gia ngay trong ngày ấy và về sau kế thừa dòng pháp của vị này. Sau đó, ông đến sống tại Tây Sơn (西山, tức Kính Sơn [徑山]) thuộc Dư Hàng (餘杭, Tỉnh Triết Giang) và trở thành sơ tổ của Phái Kính Sơn. Đến năm thứ 3 (768) niên hiệu Đại Lịch (大曆), ông vào cung nội, thuyết pháp cho vua Đại Tông, cho nên ông được ban tặng hiệu Quốc Nhất Đại Sư (國一大師) và tên chùa Kính Sơn Tự (徑山寺). Các vị Tướng Công Thôi Hoán (崔渙), Bùi Tấn Công Độ (裴晉公度), Đệ Ngũ Kỳ (第五琦), Trần Thiếu Du (陳少遊), v.v., đã từng bái ông làm thầy. Ngay chính như những nhân vật nổi tiếng của Nam Tông Thiền như Tây Đường Trí Tàng (西堂智藏), Thiên Hoàng Đạo Ngộ (天皇道悟), Đơn Hà Thiên Nhiên (丹霞天然), v.v., cũng đã từng đến tham vấn với ông. Vào năm thứ 6 (790) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông chuyển đến trú tại Tịnh Độ Viện (淨土院) của Long Hưng Tự (龍興寺) và đến tháng 12 năm thứ 8 (792) thì thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi đời và 50 hạ lạp. Vua Đức Tông ban cho thụy hiệu là Đại Giác Thiền Sư (大覺禪師); Lý Cát Phụ (李吉甫) soạn ra Hàng Châu Kính Sơn Tự Đại Giác Thiền Sư Bi Minh Tinh Tự (杭州徑山寺大覺禪師碑銘幷序).
(龍華之會): hay Long Hoa Hội (龍華會), Long Hoa Tam Hội (龍華三會), Long Hoa Tam Đình (龍華三庭), Di Lặc Tam Hội (彌勒三會), Từ Tôn Tam Hội (慈尊三會), Long Hoa (龍華), tức chỉ ba hội thuyết pháp của Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) sau khi thành đạo. Sau khi đức Phật diệt độ khoảng 56 ức 7 ngàn vạn năm (có thuyết cho là 57 ức 6 ngàn vạn năm), từ trên cung trời, Bồ Tát Di Lặc hạ sanh xuống nhân gian, xuất gia học đạo, ngồi thành chánh giác dưới gốc cây Long Hoa (s: nāga-puṣpa, 龍華樹, Mesuna roxburghii Wigh, Mesuna ferrea) trong vườn Hoa Lâm (華林), Thành Xí Đầu (翅頭城), và thuyết pháp trước sau 3 lần. Theo Tam Thế Đẳng Phẩm (三世等品) của Bồ Tát Xử Thai Kinh (菩薩處胎經) cho biết rằng trong 3 hội Long Hoa, hội thứ nhất Ngài thuyết pháp độ được 96 ức chúng sanh và truyền thọ Năm Giới của đức Thích Tôn; hội thứ hai độ được 94 ức và mọi người đều thọ trì ba pháp Quy Y; hội thứ ba độ được 92 ức và hết thảy đều niệm Nam Mô Phật. Tín ngưỡng đức Phật Di Lặc xuất thế vốn thịnh hành từ xưa cho đến nay, ai ai cũng khát ngưỡng chờ đợi sự xuất hiện của ngài để được dự vào pháp hội Long Hoa. Như trong Xuất Tam Tạng Ký Tập (出三藏記集) quyển 12, Nguyên Thủy Tập Mục Lục Tự (原始集目錄序) của Pháp Uyển Tạp Lục (法苑雜錄) có đề cập bản Tống Minh Hoàng Đế Sơ Tạo Long Hoa Thệ Nguyện Văn (宋明皇帝初造龍華誓願文), Kinh Sư Chư ấp Tạo Di Lặc Tượng Tam Hội Ký (京師諸邑造彌勒像三會記), Tề Cánh Lăng Văn Tuyên Vương Long Hoa Hội Ký (齊竟陵文宣王龍華會記), v.v. Hơn nữa, nơi bài minh sau lưng bức tượng Di Lặc do Tỳ Kheo Tăng Hân (僧欣) tạo lập vào tháng 12 năm thứ 23 (499) niên hiệu Thái Hòa (太和) nhà Bắc Ngụy có ghi lại lúc đức Phật Di Lặc xuất hiện; nguyện vọng của ông là được tái sanh làm người và trở thành vương tộc để tham dự vào hội thuyết pháp Long Hoa. Ngoài ra, pháp hội cúng dường Phật Di Lặc và Quán Phật Hội (灌佛會, Hội Tắm Phật) cũng được gọi là Long Hoa Hội. Từ xa xưa, Long Hoa Hội đã là một lễ hội rất thịnh hành được tổ chức vào ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch từ trong hoàng cung ra đến ngoài dân dã để kỷ niệm ngày Bồ Tát Di Lặc hạ sanh. Như trong Kinh Sở Tuế Thời Ký (荊楚歲時記), Điều Long Hoa Hội (龍華會條) của Lương Tông Lẫm (梁宗懍, ?-?) thời Nam Triều có ghi lại rằng: “Tứ nguyệt bát nhật, chư tự các thiết hương thang dục Phật, cọng tác Long Hoa hội, dĩ vi Di Lặc hạ sanh chi chưng (四月八日、諸寺各設香湯浴佛、共作龍華會、以爲彌勒下生之徵, vào ngày mồng tám tháng tư, các chùa đều thiết hương, nước nóng tắm Phật, và tổ chức Hội Long Hoa để làm chứng cớ cho việc Bồ Tát Di Lặc hạ sanh).” Hay trong bài thơ Bồi Nguyên Thị Ngự Du Chi Hình Sơn Tự (陪元侍御遊支硎山寺) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, ?-786?) nhà Đường có câu: “Chi công khữ dĩ cửu, tịch mịch Long Hoa Hội (支公去已久、寂寞龍華會, Ông Chi đi đã lâu, Hội Long Hoa vắng lặng).” Bên cạnh đó, trong Suy Bi Đồ (推碑圖) của Lưu Bá Ôn (劉伯溫, 1311-1375) nhà Minh cũng có câu: “Ngưu đầu thử vĩ triệt hạ tai, triêu bệnh mộ tử thậm bi ai, hữu nhân thâu đắc thiên Phật bảo, Long Hoa hộ hựu kiến đương lai (牛頭鼠尾撒下災、朝病暮死甚悲哀、有人收得天佛寶、龍華護佑見當來, đầu trâu đuôi chuột hết hung tai, sáng bệnh chiều chết quá bi ai, có người thu được báu trời Phật, Long Hoa phò hộ thấy tương lai).” Khi pháp môn sám hối thịnh hành, xuất hiện bộ Đắc Ngộ Long Hoa Tu Chứng Sám Nghi (得遇龍華修證懺儀, 4 quyển) do Sa Môn Như Tinh (如惺) của Từ Vân Tự (慈雲寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山) soạn. Tại Thiên Vương Điện (天王殿) của Linh Ẩn Tự (靈隱寺), Hàng Châu (杭州), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có hai câu đối về đức Phật Di Lặc rằng: “Bố Đại vô song phá nhan thùy tiếu nhĩ đẳng mạc đãi Long Hoa Tam Hội, pháp môn bất nhị đại phục năng dung lai nhân toàn bằng niệm Phật nhất tâm (布袋無雙破顔垂笑爾等莫待龍華三會、法門不二大腹能容來人全憑念佛一心, Bố Đại vô song tươi cười thương chúng các người chớ đợi Long Hoa Ba Hội, pháp môn chẳng khác bụng lớn chứa trùm kẻ đến đều nương niệm Phật nhất tâm).” Ngoài ra, tín ngưỡng Long Hoa còn được tìm thấy trong Đạo Giáo qua Tam Kỳ Phổ Độ Long Hoa Kinh (三期普度龍華經); như trong bài Hoàn Kinh Tán (完經讚) có câu: “Thiên Hoàng Ngọc Đế, phổ độ chúng sinh, Long Hoa Kinh Sám dĩ xiển minh, tín thọ nhi phụng hành, vạn sự hàm hanh, độ kiếp đắc thái bình (天皇玉帝、普度眾生、龍華經懺已闡明、信受而奉行、萬事咸亨、度劫得太平, Thiên Hoàng Ngọc Đế, độ khắp chúng sinh, Long Hoa Kinh Sám đã rõ rành, tin nhận đem tu hành, vạn sự thông hanh, vạn kiếp được thái bình).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập