Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ yếu ớt không bao giờ có thể tha thứ. Tha thứ là phẩm chất của người mạnh mẽ. (The weak can never forgive. Forgiveness is the attribute of the strong.)Mahatma Gandhi
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Con người chỉ mất ba năm để biết nói nhưng phải mất sáu mươi năm hoặc nhiều hơn để biết im lặng.Rộng Mở Tâm Hồn
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ngô Ỷ »»
(投子義清, Tōsu Gisei, 1032-1083): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, xuất thân vùng Thanh Châu (青州, Tỉnh Sơn Đông). Năm lên 7 tuổi, ông xuất gia ở Diệu Tướng Tự (妙相寺), đến năm 15 tuổi thì thọ giới. Trong khoảng thời gian này, ông học Bách Pháp Luận (百法論) và thông hiểu Kinh Hoa Nghiêm. Sau ông đến tham vấn Phù Sơn Pháp Viễn (浮山法遠, tức Viên Giám) ở Thánh Nham Tự (聖巖寺), trở thành nhân vật nổi tiếng trong số môn hạ của Viên Giám, nên được gọi là Thanh Hoa Nghiêm (清華嚴). Sau đó, ông khế ngộ yếu chỉ của Pháp Viễn, được trao truyền cho tấm y của Đại Dương Cảnh Huyền (大陽警玄) và kế thừa dòng pháp của vị này. Từ đó ông trở thành môn hạ của Tào Động Tông. Về sau, ông đến Lô Sơn (廬山), duyệt đọc các kinh luận, rồi đến năm thứ 6 (1073) niên hiệu Hy Ninh (熙寧) thì trở về Thư Châu (舒州) và sống tại Hải Hội Thiền Viện (海會禪院) trên Bạch Vân Sơn (白雲山). Trãi qua nơi đây được 8 năm, ông lại chuyển đến Đầu Tử Sơn (投子山). Vào ngày mồng 4 tháng 5 năm thứ 6 (1083) niên hiệu Nguyên Phong (元豐), ông thị tịch, hưởng thọ 52 tuổi đời và 32 hạ lạp. Trước tác của ông có Thư Châu Đầu Tử Thanh Hòa Thượng Ngữ Lục (舒州投子清和尚語錄) 2 quyển, Đầu Tử Thanh Hòa Thượng Ngữ Yếu (投子清和尚語要) 1 quyển.
(頓悟入道要門論, Tongonyōdōyōmonron): 2 quyển, còn gọi là Đốn Ngộ Yếu Môn (頓悟要門, Tongoyōmon), do Đại Châu Huệ Hải (大珠慧海) soạn, được san hành vào năm thứ 2 (1369) niên hiệu Hồng Võ (洪武). Quyển thượng là Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận (頓悟入道要門論), quyển hạ là Chư Phương Môn Nhân Tham Vấn Ngữ Lục (諸方門人參問語錄); cả hai được gọi là Đốn Ngộ Yếu Môn hay Đại Châu Thiền Sư Ngữ Lục (大珠禪師語錄). Đây là tác phẩm nhấn mạnh tư tưởng đốn ngộ của Nam Tông Thiền do Lục Tổ Huệ Năng (慧能) khởi xướng. Vào năm thứ 2 (1369) niên hiệu Hồng Võ, Diệu Diệp (妙叶) phát hiện trong hòm sách chỉ có quyển thượng mà thôi, rồi kết hợp biên tập các ngữ cú của Huệ Hải được thâu lục trong quyển 6 và 18 của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) để làm thành quyển hạ, thêm vào phụ lục và phần An Tâm Pháp Môn (安心法門) của Đạt Ma (達磨) và hình thành nên bản san hành thời nhà Minh. Hiện tại, nếu suy định từ nội dung tả bản của quyển thượng được tàng trữ tại Kim Trạch Văn Khố (金澤文庫, Kanazawa-bunko), hình như bản này được san hành dưới thời nhà Tống. Bản do Diệu Diệp phát hiện cũng không rõ là san bản hay tả bản. Sách chú thích về tác phẩm này có bản ấn hành của Nham Ba Văn Khố (岩波文庫, Iwanami-bunko) do Vũ Tỉnh Bá Thọ (宇井伯壽, Ui Hakuju) trước tác. Tuy nhiên, về bản Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận này, có nhiều ký thuật song song giống với bản Nam Dương Hòa Thượng Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (南陽和尚問答雜徴義, Nanyōoshōmondōzacchōgi), và sự thành lập của nó cũng có rất nhiều vấn đề.
(拈花、拈華): đưa cành hoa lên. Từ này thường đi theo cụm từ niêm hoa vi tiếu (拈花微笑, đưa cành hoa và mĩm miệng cười); như trong Liên Đăng Hội Yếu (聯燈會要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1557) quyển 1 có ghi rõ điển tích rằng: “Thế Tôn tại Linh Sơn Hội thượng, niêm hoa thị chúng, chúng giai mặc nhiên, duy Ca Diếp phá nhan vi tiếu. Thế Tôn vân: 'Ngô hữu Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, phú chúc Ma Ha Ca Diếp' (世尊在靈山會上、拈華示眾、眾皆默然、唯迦葉破顏微笑、世尊云、吾有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、不立文字、敎外別傳、付囑摩訶迦葉, đức Thế Tôn trên Hội Linh Sơn, đưa hoa ra dạy chúng, đại chúng đều im lặng, chỉ có Ca Diếp chuyển mặt mĩm cười. Thế Tôn bảo rằng: 'Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, tâm vi diệu Niết Bàn, thật tướng không tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập cước trên chữ nghĩa, truyền riêng ngoài giáo lệ, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp').” Gọi cho đủ là niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu (拈華瞬目破顏微笑, đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mĩm cười). Từ thời nhà Tống trở đi, trong Thiền Tông rất thịnh hành câu chuyện này, vốn căn cứ vào Phẩm Phạm Vương Quyết Nghi (梵王決疑品) thứ 2 của Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 26), cũng như nương vào thuyết cho rằng Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) là sơ Tổ của Thiền Tông Tây Trúc. Tuy nhiên, thuyết niêm hoa vi tiếu này vẫn còn nhiều vấn đề khả nghi, chưa giải quyết rõ. Còn sự kiện Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp thọ nhận phó chúc chánh pháp thì được nêu rõ trong Bắc Bản Niết Bàn Kinh (北本涅槃經) quyển 2. Trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 6 có câu rằng: “Niêm hoa ngã Phật tại Linh Sơn, Ca Diếp Đầu Đà hốt phá nhan, kim khẩu mật ngôn thân phú chúc, bất duy thiên thượng dữ nhân gian (拈花我佛在靈山、迦葉頭陀忽破顏、金口密言親付囑、不唯天上與人間, đưa hoa đức Phật tại Linh Sơn, Đầu Đà Ca Diếp chợt hiểu ràng, lời vàng mật ngôn nay phú chúc, đâu chỉ trên Trời với nhân gian).” Hay trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 2 lại có câu: “Thế Tôn phi thử nhãn, bất năng biện Ca Diếp chi nhất tiếu; Ca Diếp phi thử nhãn, bất năng khế Thế Tôn chi niêm hoa (世尊非此眼、不能辨迦葉之一笑、迦葉非此眼、不能契世尊之拈花, Thế Tôn không có con mắt này, chẳng thể nào hiểu được nụ cười của Ca Diếp; Ca Diếp không có con mắt này, chẳng thể nào lãnh hội được Thế Tôn đưa hoa ra).” Trong Thiền Môn có bài Tán Tổ Sư rằng: “Niêm hoa ngộ chỉ, Tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa, chánh pháp vĩnh xương minh (拈花悟旨、祖道初興、緜延四七演眞乘、六代遠傳燈、奕葉相承、正法永昌明, đưa hoa ngộ ý, Tổ đạo hưng long, dài lâu hai tám diễn chơn thừa, sáu đời xa truyền đăng, nối dõi kế thừa, chánh pháp mãi rạng ngời).”
(四句): bốn câu. Nguyên tắc hình thành 4 câu này không quan hệ đến số lượng chữ để hình thành nên các bài kệ, bao hàm yếu nghĩa, triết lý của kinh luận; cho nên kinh dạy rằng nếu dùng 4 câu này để giáo hóa mọi người, hay tự mình thọ trì thì sẽ có công đức lớn. Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經) quyển 2 có dạy rằng: “Khuyên các chúng sanh, cùng phát tâm này, nên lấy pháp chơn thật, một kệ bốn câu, ban cho một chúng sanh, khiến cho hướng đến vô thượng chánh đẳng Bồ Đề; đó là chơn thật Ba La Mật Đa.” Từ Tứ Cú này có một số thuật ngữ liên quan như Tứ Cú Kệ (四句偈), Tứ Cú Thành Đạo (四句成道), Tứ Cú Niệm Phật (四句念佛), Tứ Cú Suy Kiểm (四句推檢), Tứ Cú Bách Phi (四句百非), v.v. Như bài Tứ Cú Kệ do quỷ La Sát thuyết cho đức Phật khi còn là tiên nhân tu trong núi Tuyết Sơn là: “Chư hành vô thường, hữu sinh hữu diệt, sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc (諸行無常、有生有滅、生滅滅已、寂滅爲樂, các hành vô thường, có sinh có diệt, sinh diệt diệt hết, vắng lặng an vui”. Hay như trong Kim Cang Kinh (s: Vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra, 金剛經) có Tứ Cú Kệ về 4 quả vị là “Ngộ đắc sơ cú, y nghĩa tu hành, tiện chứng Dự Lưu, Tu Đà Hoàn quả (悟得初句、依義修行、便證預流、須陀洹果, ngộ được câu đầu, theo nghĩa tu hành, bèn chứng Dự Lưu, Tu Đà Hoàn quả)”; “Ngộ nhị cú ý, y nghĩa tu hành, tiện chứng Nhất Lai, Tư Đà Hàm quả (悟二句意、依義修行、便證一來、斯陀含果, câu hai ý ngộ, theo nghĩa tu hành, bèn chứng Nhất Lai, Tư Đà Hàm quả)”; “Ngộ tam cú ý, y nghĩa tu hành, tiện chứng Nhất Lai, Tư Đà Hàm quả (悟三句意、依義修行、便證不來、阿那含果, Câu ba ý ngộ, theo nghĩa tu hành, bèn chứng Nhất Lai, Tư Đà Hàm quả)”; “Ngộ tú cú ý, y nghĩa tu hành, sử chứng Vô Sanh, A La Hán quả (悟四句意、依義修行、使證無生、阿羅漢果, ngộ ý câu bốn, theo nghĩa tu hành, khiến chứng Vô Sanh, A La Hán quả)”. Tứ Cú Thành Đạo là bài kệ gồm 4 câu do vị A La Hán tụng lên khi thành đạo: “Chư lậu dĩ tận, phạm hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, bất thọ hậu hữu (諸漏已盡、梵行已立、所作已辨、不受後有, các lậu đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng chịu thân sau)”. Hay Tứ Cú Niệm Phật là “Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát, Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (南無阿彌陀佛、南無觀世音菩薩、南無大勢至菩薩、南無清淨大海眾菩薩)”.
(圓具): là tên gọi khác của Cụ Túc Giới, vì người thọ trì Cụ Túc Giới thì gần với quả vị viên mãn của Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃). Như trong Tỳ Ni Quan Yếu (毗尼關要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 720) quyển 2 có giải thích rằng: “Xuất gia thọ Tỳ Kheo giới, cố vân cận viên, hựu vân cụ viên, diệc danh viên cụ; dĩ thử cụ giới, nãi cụ túc Niết Bàn chánh nhân, cố danh cụ viên viên cụ dã (出家受比丘戒、故云近圓、又云具圓、亦名圓具、以此具戒、乃具涅槃正因、故名具圓圓具也, xuất gia thọ giới Tỳ Kheo, được gọi là cận viên [gần viên mãn], lại có tên là cụ viên [đầy đủ viên mãn], cũng gọi là viên cụ [viên mãn đầy đủ]; nhờ giới Cụ Túc này, mà đầy đủ nhân chính của Niết Bàn, nên gọi là cụ viên, viên cụ).” Từ viên cụ này xuất hiện khá nhiều trong các Ngữ Lục Thiền Tông. Như trong Kiềm Nam Hội Đăng Lục (黔南會燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1591) quyển 6 có câu: “Phổ An Tùng Khuy Thiện Quyền Vị Thiền Sư, Sở Bắc Cù thị tử, nhân thế loạn nhập Kiềm, ngụ An Thuận chi Thái Hư Động trĩ nhiễm, y Hàm Quang viên cụ, tham Nguyệt Tràng Hòa Thượng ấn chứng, trú An Nam chi Vạn Thọ (普安松巋善權位禪師、楚北瞿氏子、因世亂入黔、寓安順之太虛硐薙染、依含光圓具、參月幢和尚印證、住安南之萬壽, Thiền Sư Tùng Khuy Thiện Quyền Vị ở Phổ An, con của nhà họ Cù ở phương Bắc nước Sở, nhân thời loạn lạc mà đến Quý Châu, nhờ Thái Hư Động ở An Thuận được xuất gia, nương theo Hàm Quang thọ Cụ Túc giới, rồi tham vấn Hòa Thượng Nguyệt Tràng được ấn chứng, trú tại Vạn Thọ thuộc An Nam).” Hay trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 22 có đoạn rằng: “Đàm Châu Đại Quy Sơn Tổ Triện Thiền Sư, tánh Ngô thị, Phúc Châu Hầu Quan nhân dã, xuất gia viên cụ, tham Đại Quy Tú Thiền Sư, khế ngộ Tổ ý, đạo hạnh cao khiết, lệ thực thô y (潭州大溈山祖瑑禪師、姓吳氏、福州候官人也、出家圓具、參大溈秀禪師、契悟祖意、道行高潔、糲食麤衣, Thiền Sư Tổ Triện ở Đại Quy Sơn, Đàm Châu, họ là Ngô, người vùng Hầu Quan, Phúc Châu; xuất gia và thọ giới Cụ Túc, rồi tham học với Thiền Sư Đại Quy Tú, lãnh ngộ ý của Tổ, đạo hạnh thanh cao, ăn gạo lức và mặc áo thô sơ).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập