Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Nghĩa Chơn »»
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(覺鑁, Kakuban, 1095-1143): vị tăng của sống vào cuối thời Bình An, vị khai Tổ của Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, húy là Giác Noan (覺鑁), thông xưng là Noan Thượng Nhân (鑁上人), Mật Nghiêm Tôn Giả (密嚴尊者), hiệu là Chánh Giác Phòng (正覺房), thụy hiệu là Hưng Giáo Đại Sư (興敎大師), xuất thân vùng Phì Tiền (肥前, Hizen). Năm 13 tuổi, ông theo làm môn hạ của Khoan Trợ (寬助) ở Thành Tựu Viện (成就院) tại Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), rồi học Pháp Tướng, Hoa Nghiêm, Tam Luận ở vùng Nam Đô. Đến năm 16 tuổi, ông xuất gia, sau đó lên Cao Dã Sơn, theo hầu Minh Tịch (明寂) ở Tối Thiền Viện (最禪院) và nỗ lực học Mật Giáo. Năm 1121, ông thọ phép Quán Đảnh từ Khoan Trợ. Năm 1126, ông phát nguyện chấn hưng giáo học với ý đồ tái hưng Truyền Pháp Hội, rồi đến năm 1130 thì được Điểu Vũ Thượng Hoàng (鳥羽上皇) ủng hộ và khai sáng Tiểu Truyền Pháp Viện (小傳法院). Đến năm 1132, ông kiến lập thêm Đại Truyền Pháp Viện (大傳法院), Mật Nghiêm Viện (密嚴院) với tư cách là ngôi chùa phát nguyện của Thượng Hoàng. Trong lúc này, Thượng Hoàng đã hiến cúng 7 trang viên ở vùng Thạch Thủ (石手), Kỷ Y (紀伊, Kii). Năm 1133, ông thọ pháp với Giác Du (覺猷) của Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji); với Định Hải (定海), Hiền Giác (賢覺) của Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji); với Khoan Tín (寬信) của Khuyến Tu Tự (勸修寺, Kanshū-ji); với Giác Pháp (覺法), Thánh Huệ (聖惠) của Nhân Hòa Tự. Từ đó, ông khai sáng Dòng Truyền Pháp Viện (傳法院流), sự tổng hợp của hai dòng Tiểu Dã (小野), Quảng Trạch (廣澤) thuộc Đông Mật và Thai Mật. Năm 1134, ông làm Viện Chủ của Đại Truyền Pháp Viện, kiêm nhiệm luôn cả Tọa Chủ của Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji). Chính ông đã thành công trong việc làm cho Cao Dã Sơn thoát khỏi sự chi phối của Đông Tự (東寺, Tō-ji), nhưng vì gặp phải sự phản đối kịch liệt của Kim Cang Phong Tự và Đông Tự, nên năm sau ông phải nhường cả hai chức này cho Chơn Dự (眞譽), rồi lui về ẩn cư ở Mật Nghiêm Viện. Đến năm 1140, do từ cuộc luận tranh trang viên ở vùng Tương Hạ (相賀, Aiga), ông bị phía Kim Cang Phong Tự tấn công; cho nên hạ sơn xuống vùng Căn Lai (根來, Negoro), rồi cùng với Quán Pháp (觀法) ở Viên Minh Tự (圓明寺) tập trung cho việc trước tác. Chính ông viết tác phẩm Ngũ Luân Cửu Tự Minh Bí Mật Thích (五輪九字明秘密釋) để làm cơ sở cho tư tưởng Bí Mật Niệm Phật vốn thuyết về sự nhất trí tận cùng của Chơn Ngôn Mật Giáo và Chuyên Tu Niệm Phật. Trước tác của ông ngoài tác phẩm trên còn có Nhất Kỳ Đại Yếu Bí Mật Tập (一期大要秘密集) 1 quyển, Mật Nghiêm Viện Phát Lộ Sám Hối Văn (密嚴院發露懺悔文) 1 quyển, Chơn Ngôn Tông Tức Thân Thành Phật Nghĩa Chương (眞言宗卽身成佛義章) 1 quyển, Hưng Giáo Đại Sư Toàn Tập (興敎大師全集) 2 quyển, v.v.
(惠運, Eun, 798-869): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, họ là An Đàm (安曇), xuất thân vùng Sơn Thành (山城), là một trong 8 vị tăng sang nhà Đường (gồm Tối Trừng, Không Hải, Thường Hiểu, Viên Hành, Viên Nhân, Huệ Vận, Viên Nhân và Tông Duệ). Ban đầu ông theo học giáo học Pháp Tướng Tông với Thái Cơ (泰基) ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), cũng như Trọng Kế (仲繼) ở Dược Sư Tự (藥師寺, Yakushi-ji); rồi sau khi thọ giới vào năm 824 (niên hiệu Thiên Trường [天長] nguyên niên), ông đến làm môn hạ của Thật Huệ (實惠, Jitsue) thuộc Chơn Ngôn Tông. Ông đã từng làm chức Kiểm Hiệu cho việc sao chép các kinh điển tại vùng Quan Đông (關東, Kantō), rồi làm Giảng Sư ở Quan Thế Âm Tự (觀世音寺) vùng Trúc Tử (筑紫). Sau đó, vào năm 842 (niên hiệu Thừa Hòa [承和] thứ 9), ông lên thuyền sang nhà Đường. Tại Thanh Long Tự (青龍寺) ở Trường An, ông được Nghĩa Chơn (義眞) ban cho phép Quán Đảnh, và sau đó đi tuần bái khắp Ngũ Đài Sơn và Thiên Thai Sơn. Đến năm 847 (năm thứ 14 cùng niên hiệu trên), ông trở về nước, trên lên triều đình bản Bát Gia Thỉnh Lai Mục Lục (八家請來目錄). Năm sau, ông khai sáng An Tường Tự (安祥寺, Anjō-ji) ở kinh đô Kyoto. Về sau, ông được cử làm Tăng Đô, nên được gọi là An Tường Tự Tăng Đô (安祥寺僧都).
(賴瑜, Raiyu, 1226-1304): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Liêm Thương, vị Tổ của Dòng Trung Tánh Viện (中性院流), húy là Hào Tín (豪信), Lại Du (賴瑜), tự là Tuấn Âm (俊音); xuất thân vùng Na Hạ (那賀, Naka), Kỷ Y (紀伊, Kii, thuộc Wakayama-ken [和歌山懸]), con của Thổ Sanh Xuyên Nguyên Tứ Lang Đại Phu (土生川源四郎大夫). Sau khi xuất gia, ông lên học giáo lý ở Truyền Pháp Viện (傳法院) trên Cao Dã Sơn; sau đó học về Tam Luận, Hoa Nghiêm ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), rồi Duy Thức ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) và Mật Giáo ở Chơn Ngôn Viện (眞言院, Shingon-in). Vào năm 1256, ông kế thừa Dòng Quảng Trạch từ Kinh Du (經瑜); rồi đến năm 1266 thì làm chức Học Đầu cho Đại Truyền Pháp Viện (大傳法院) trên Cao Dã Sơn. Năm sau, ông chuyển đến trú tại Tam Bảo Viện (三寶院) ở Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), rồi đến năm 1272 thì tái hưng Đại Truyền Pháp Viện và kiến lập Trung Tánh Viện (中性院). Vào năm 1284, nhân việc xây dựng nhà tắm nước nóng ở Đại Truyền Pháp Viện, ông tranh chấp với Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji); cuối cùng ông dời Đại Truyền Pháp Viện và Mật Nghiêm Viện (密嚴院) đến vùng Căn Lai (根來, Negoro), rồi sáng lập ra Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗). Ông được xem như là vị Tổ của Đại Truyền Pháp Viện thời Trung Hưng. Đệ tử phú pháp của ông có Thánh Trung (聖忠), Thánh Vân (聖雲), Thánh Tầm (聖尋), Lại Duyên (賴緣), v.v. Trước tác của ông để lại cho hậu thế có Bí Mật Vấn Đáp (秘密問答) 22 quyển, Chơn Tục Tạp Ký Vấn Đáp Sao (眞俗雜記問答鈔) 30 quyển, Tức Tâm Nghĩa Ngu Thảo (卽心義愚草) 4 quyển, Thập Trụ Tâm Luận Ngu Thảo (十住心論愚草) 38 quyển, v.v.
(國清寺, Kokusei-ji): ngôi chùa tọa lạc tại sườn núi phía nam của ngọn Phật Lũng Phong (佛隴峰), thuộc Thiên Thai Sơn (天台山), Huyện Thiên Thai (天台縣), Tỉnh Triết Giang (浙江省), là nơi phát xuất của Thiên Thai Tông Trung Quốc. Vào năm 596 (niên hiệu Khai Hoàng [開皇] thứ 18 nhà Tùy), vua nhà Tấn là Dương Quảng (揚廣, tức Dương Đế [煬帝]) sáng lập ngôi chùa này cho Đại Sư Trí Khải (智顗). Lúc đầu tiên, Thiền Sư Định Quang (定光) đến trú tại núi này, thường dạy chúng đệ tử rằng không bao lâu nữa sẽ có bậc thiện tri thức lỗi lạc đến đây. Sau đó, quả nhiên có Trí Khải đến quảng bố giáo pháp, nhưng chưa thành tựu bao nhiêu thì đã thị tịch ở Nam Kiến Tự (南建寺), Phật Lũng (佛隴). Nhà vua rất thương tiếc, bèn cúng dường trai tăng cho ngàn vị tăng để hồi hướng cho Trí Khải, và tiến hành trùng kiến các ngôi đường vũ. Ban đầu chùa có tên là Thiên Thai Sơn Tự (天台山寺), sau nhân lần đầu tiên khi Trí Khải đến núi, Định Quang mộng báo cho biết 3 nước (Bắc Chu, Bắc Tề và Trần) hợp thành một, có một người rất có thế lực mới có thể làm cho chùa thành tựu được, chùa thành tựu thì nước mới thanh bình; cho nên chùa được đặt tên là Quốc Thanh Tự. Vào năm 605 (niên hiệu Đại Nghiệp [大業] nguyên niên nhà Tùy), chùa được ban sắc ngạch với tên gọi như vậy. Không bao lâu sau, Quán Đảnh (灌頂) đến trú trì chùa và nơi đây trở thành đạo tràng căn bản của Thiên Thai Tông. Từ niên hiệu Trinh Nguyên (貞元) 9 nhà Đường trở về sau, các lưu học tăng Nhật Bản đến chùa tham học càng đông, như Tối Trừng (最澄), Nghĩa Chơn (義眞), Viên Giới (圓戒), Viên Tu (圓修), Thành Tầm (成尋), Tuấn Nhưng (俊芿), Trùng Nguyên (重源), Vinh Tây (榮西), v.v. Mọi người đều đến đảnh lễ miếu tháp của Trí Khải, sau đó mang về nước các tượng Phật, kinh luận, v.v., và khai sáng Thiên Thai Tông Nhật Bản. Theo cuốn Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Ký (入唐求法巡禮行記) của Viên Nhân (圓仁), đương thời chùa thường có khoảng150 vị tăng lưu trú, đến mùa An Cư kiết hạ thì có hơn 300 người; cho nên lúc bấy giờ chùa đang hồi cực thịnh. Đến lúc nạn Hủy Phật Hội Xương (會昌), chùa bị binh hỏa thiêu rụi. Vào năm 851 (niên hiệu Đại Trung [大中] thứ 5), chùa được trùng kiến lại và đến năm 1005 (niên hiệu Cảnh Đức [景德] thứ 2 nhà Tống), chùa đổi tên thành Cảnh Đức Quốc Thanh Tự (景德國清寺). Sau đó, chùa lại bị binh hỏa thiêu cháy, mấy trăm quyển sách của ba triều đại đều mất sạch, chỉ còn lại Liên Kinh (蓮經) do Trí Khải đề bút, 1 quyển kinh lá bối của Tây Vức và tượng Phật bằng gỗ Chiên Đàn thời nhà Tùy cũng như răng Phật mà thôi. Vào năm 1128 (niên hiệu Kiến Viêm [建炎] thứ 2 nhà Nam Tống), triều đình ban sắc lệnh trùng tu chùa, cho nên cảnh trí chùa đẹp hơn ngày xưa. Hai năm sau, triều đình hạ chiếu chuyển chùa sang Thiền Tông, vì vậy nơi đây trở thành Thiền tự. Về sau, chùa đã trải qua bao lần tái tạo và khuôn viên chùa được gọi là một trong 4 thắng cảnh trong thiên hạ. Nơi đây có cầu tên Phong Can Kiều (豐干橋), tương truyền dưới thời nhà Đường, Phong Can (豐干), Hàn Sơn (寒山) và Thập Đắc (拾得) đã từng đến chơi ở đây. Cũng phát xuất từ nhân duyên Của Thiền Sư Phong Can với chùa, nên từ đó về sau chùa được đội thành Thiền tự. Trước chùa có tháp 9 tầng bằng ngói. Bảo vật của chùa có tháp Xá Lợi bằng đồng do Ngô Việt Vương Tiền Hoằng Thục (錢弘淑) tạo.
(僧叡, Sōei, 1762-1826): học Tăng của Phái Bổn Nguyện Tự thuộc Tịnh Độ Chơn Tông, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; húy là Tăng Duệ (僧叡); tên lúc nhỏ là Tả Kinh (左京); thụy hiệu Thắng Giải Viện (勝解院); hiệu Ưng Thành (鷹城), Thạch Tuyền (石泉); xuất thân vùng Hộ Hà Nội (戸河內, Togouchi), An Nghệ (安芸, Aki, thuộc Hiroshima-ken [廣島縣]); trưởng nam của Viên Đế (圓諦) ở Chơn Giáo Tự (眞敎寺) vùng An Nghệ. Năm 1773, đến nhập môn làm đệ tử của Tuệ Vân (慧雲) ở Báo Chuyên Phường (報專坊), An Nghệ, học về giáo Nghĩa Chơn Tông; nghiên cứu thêm cả Phạn Ngữ, Nhân Minh và thông hiểu luôn Thiên Thai giáo học. Sau ông tuyên xướng thuyết Hoằng Nguyện Trợ Chánh (弘願助正) và trong dịp An Cư năm 1817 ở Học Lâm của Tây Bổn Nguyện Tự, ông lại đưa ra các học thuyết mới, tạo nên luận tranh trong nội bộ Tông môn và bị điều tra. Đến năm 1825, ông được cử làm chức Ty Giáo (司敎). Ông là Tổ của Học Phái Thạch Tuyền (石泉學派). Trước tác của ông có rất nhiều như Trợ Chánh Thích Vấn (助正釋問) 1 quyển, Văn Loại Thuật Văn (文類述聞) 8 quyển, Giáo Hành Tín Chứng Tùy Văn Ký (敎行信証隨聞記) 63 quyển, Sài Môn Huyền Thoại (柴門玄話) 1 quyển, v.v.
(神京): (1) Đế đô, thủ đô. Như trong bài Phụng Hòa Biệt Việt Vương (奉和別越王) của Trương Đại An (張大安, ?-?) nhà Đường có câu: “Lệ nhật khai phương điện, giai khí tích thần kinh (麗日開芳甸、佳氣積神京, trời đẹp bày thơm cõi, khí tốt tụ kinh đô).” Hay trong bài Tiểu Trùng Sơn (小重山) của Hòa Ngưng (和凝, 898-955) thời Ngũ Đại có đoạn: “Xuân nhập thần kinh vạn mộc phương, cấm lâm oanh ngữ hoạt, điệp phi cuồng (春入神京萬木芳、禁林鶯語滑、蝶飛狂, xuân đến đế đô cây cỏ thơm, vườn cấm oanh líu lo, bướm bay rối rít).” Trong bài Võ Xương Khởi Nghĩa Chơn Sử (武昌起義真史) của Tào Á Bá (曹亞伯, 1875-1937) cũng có câu: “Bỉnh nhĩ bạch mao, báo nhĩ tiên đức, trùng tân Cửu Đỉnh, tái điện thần kinh (秉爾白茅、報爾先德、重新九鼎、再奠神京, giữ vững ý chí người, báo đáp đức lớn người, trùng tu mới Cửu Đỉnh, tái thiết chốn thần kinh).” (2) Giống như tiên cảnh, kinh đô của tiên nữ. Như trong Vân Cấp Thất Thiêm (雲笈七籤) quyển 42 có đoạn: “Chiêu chơn hạ lưu, quán ngã ngọc sương, vũ quần phân phân, y ngã tiên thường, việt quá thủy hỏa, phi đăng thần kinh (招眞下流、灌我玉霜、羽裙紛紛、衣我仙裳、越過水火、飛登神京, mời Chơn Quân xuống dòng, rưới sương ngọc ta, quần long phấp phới, mặc áo tiên ta, vượt qua nước lửa, bay lên tiên cảnh).”
(聖憲, Shōken, 1307-1392): vị học tăng của Phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, thông xưng là Căn Nham Tiên Đức (根巖先德), Gia Trì Môn Tiên Đức (加持門先德); tự là Định Lâm (定林), hiệu Hoa Hải (華海); xuất thân vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi, thuộc Ōsaka [大阪]). Ông theo hầu Thật Tuấn (實俊) ở Di Lặc Viện (彌勒院) của Căn Lai Tự (根來寺, Negoro-ji), rồi được Tăng Hỷ (增喜) của Trung Tánh Viện (中性院) truyền trao cho Dòng Trung Tánh Viện (中性院流). Sau ông theo học Mật Giáo với Thuận Kế (順繼), Lại Hào (賴豪); rồi tiến hành chỉnh lý lại các giảng luận xưa nay của Phái Tân Nghĩa (新義派) và hình thành học thuyết Gia Trì Môn (加持門) của Lại Du (賴瑜). Ông kế thế làm Tổ đời thứ 4 của Trung Tánh Viện, rồi làm Học Đầu (學頭) của Đại Truyền Pháp Viện (大傳法院), chuyên tâm giáo dưỡng chúng học đồ. Trước tác của ông có Đại Sớ Bách Điều Đệ Tam Trọng (大疏百條第三重) 10 quyển, Thích Luận Bách Điều Đệ Tam Trọng (釋論大疏百條第三重) 10 quyển, Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương Thính Sao (華嚴五敎章聽鈔) 5 quyển, Tự Chứng Thuyết Pháp Thập Bát Đoạn (自証說法十八段), v.v.
(順曉, Junkyō, ?-?): vị tăng Mật Giáo Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, không rõ xuất thân quê quán, môn hạ của Thiện Vô Úy (s: Śubhakarasiṃha, 善無畏), theo Nghĩa Lâm (義林) của Tân La (新羅, Triều Tiên) học tập mật pháp của Chơn Ngôn. Ban đầu ông trú tại Linh Nham Tự (靈巖寺) vùng Thái Nhạc (泰嶽), sau chuyển đến Long Hưng Tự (龍興寺) ở Việt Châu (越州). Vào tháng 4 năm 805 (niên hiệu Vĩnh Trinh [永貞] nguyên niên), nhân hai vị tăng Nhật Bản là Tối Trừng (最澄, Saichō) và Nghĩa Chơn (義眞, Gishin) đến Long Hưng Tự tham bái, ông truyền thọ phép Quán Đảnh cho họ và trao các đồ hình Tam Muội Da (三昧耶), pháp môn niệm tụng, khế ấn, đạo cụ, v.v. Người đời thường gọi ông là Trấn Quốc Đạo Tràng Đại Đức A Xà Lê (鎭國道塲大德阿闍梨).
(長谷寺, Hase-dera): còn gọi là Phong Sơn Thần Lạc Viện (豐山神樂院), Phong Sơn Tự (豐山寺), Trường Cốc Sơn Tự (長谷山寺), ngôi chùa trung tâm Tổng Bản Sơn của Phái Phong Sơn (豐山派) thuộc Chơn Ngôn Tông, là nơi tuần lễ chiêm bái thứ 8 trong số 33 ngôi chùa nổi tiếng ở vùng Tây Quốc; hiện tọa lạc tại Hasse (初瀬), Sakurai-shi (櫻井市), Nara-ken (奈良縣). Năm 686, Đạo Minh Thượng Nhân (道明上人) kiến lập một ngôi chùa ở trên ngọn đồi phía Tây Sơ Lại Sơn (初瀨山) với tên là Bổn Trường Cốc Tự (本長谷寺); đến năm 733, nhờ sự hỗ trợ của Đằng Nguyên Phòng Tiền (藤原房前, Fujiwara-no-Fusasaki), Đức Đạo Thượng Nhân (德道上人) sáng lập Trường Cốc Tự ở vị trí hiện tại, an trí tượng đứng Thập Nhất Diện Quan Âm. Trãi qua các thời đại Nại Lương, Bình An, Liêm Thương, chùa luôn là nơi đến tham bái của các tầng lớp Hoàng tộc, quan lại, quý tộc cũng như thứ dân. Sự linh nghiệm của chùa đã được ghi lại qua những tác phẩm văn học nổi tiếng như Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記), Nguyên Thị Vật Ngữ (源氏物語), Chẩm Thảo Tử (枕草子), Kim Tích Vật Ngữ Tập (今昔物語集), v.v. Năm 1588, Chuyên Dự (專譽) của Căn Lai Tự (根來寺, Negoro-ji) đến đây trú trì và biến nơi đây thành đạo tràng của Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông, và sau này chùa trở thành ngôi chùa trung tâm của Phái Phong Sơn thuộc Chơn Ngôn Tông. Dưới thời đại Giang Hộ, rất nhiều học đồ tập trung đến đây, từ đó xuất hiện không ít học Tăng nổi tiếng. Chùa cũng đã trãi qua bao phen bị hỏa tai, cháy tan tành, nhưng rồi lại được phục hưng nguyên vẹn. Đến cuối thời đại Thất Đinh, chùa bị hoang phế. Hiện tại trong khuôn viên chùa có một số kiến trúc như Lầu Chuông, Nhân Vương Môn, Hoan Hỷ Viện, Thanh Tịnh Viện, Nguyệt Luân Viện, Mai Tâm Viện, Từ Nhãn Viện, Kim Liên Viện, Bản Nguyện Viện, Năng Mãn Luật Viện, v.v. Chùa hiện lưu giữ khá nhiều bảo vật như Trang Sức Pháp Hoa Kinh 32 quyển, Pháp Hoa Thuyết Tướng Đồ bằng bản đồng, A Di Đà Lai Nghênh Đồ, Tịnh Độ Mạn Trà La Đồ, tượng gỗ Địa Tạng, Bất Động, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập