Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Môn Tích »»
(安祥寺, Anjō-ji): ngôi chùa phụ thuộc vào sự quản lý của Chơn Ngôn Tông trên Cao Dã Sơn, hiện tọa lạc tại Yamashina-ku (山科區), Kyoto-shi (京都市), tên núi là Cát Tường Sơn (吉祥山). Vì đây là ngôi chùa kiêm chuyên trách của Cao Dã Sơn, nên được gọi là Cao Dã Sơn Đường (高野山堂). Ngôi già lam này được khai sáng vào năm 848 (Gia Tường [嘉祥] nguyên niên), nhằm cầu nguyện cho Thuần Hòa Thái Hậu được tăng long phước thọ. Huệ Vận (惠運, Eun) được cung thỉnh làm vị Tổ khai sáng nơi đây. Đến đời vị Tổ thứ 11 là Tông Ý (宗意), vận thế của chùa rất hưng thạnh, trở thành ngôi chùa nổi tiếng hàng đầu trong 3 dòng ở Tiểu Dã (小野) thuộc Chơn Ngôn Tông, từ đó hình thành Dòng An Tường Tự (安祥寺流). Đến năm 1310 (Diên Khánh [延慶] 3), vào thời của Thành Huệ (成惠), vị Tổ đời 18, chùa được liệt vào một trong những ngôi danh thắng dành cho Hoàng Tử và tầng lớp quý tộc ở với hiệu là Môn Tích (門跡, Monzeki). Tuy nhiên, đến thời vị Tổ thứ 21 là Hưng Nhã (興雅), ông nhường lại hiệu chùa và luôn của Dòng An Tường Tự cho Cao Dã Sơn. Vào năm 1469 (Văn Minh [文明] nguyên niên), chùa bị binh hỏa cháy rụi tan tành, rồi dần dần không còn là đạo tràng căn bản tu hành cho ba dòng Tiểu Dã. Vào năm 1759 (Bảo Lịch [寶曆] 9), vị Tổ đời thứ 41 là Hoằng Phạm (弘範) mới tiến hành xây dượng Quan Âm Đường, Bảo Tháp, Địa Tạng Đường, v.v., và chỉnh bị lại cảnh quan của chùa. Trong Chánh Điện chùa có thờ tượng Thập Nhất Diện Quán Thế Âm, Ngũ Trí Như Lai, thuộc dạng quốc bảo. Quần thể kiến trúc hiện tại của chùa có Chánh Điện, Địa Tạng Đường, Đại Sư Đường, được tái kiến vào cuối thời Giang Hộ (江戸, Edo).
(專照寺, Senshō-ji): ngôi chùa bản sơn của Phái Tam Môn Đồ (三門徒派) thuộc Chơn Tông, hiện tọa lạc tại Minori, Fukui-shi (福井市), Fukui-ken (福井縣); hiệu núi là Trung Dã Sơn (中野山). Vào năm 1290 (Chánh Ứng [正應] 3), Như Đạo (如道[導], Nyodō), đệ tử của Viên Thiện (圓善) ở Kiêm Chiếu Tự (兼照寺) thuộc Shizuoka-ken (靜岡縣), sáng lập nên một ngôi chùa và lấy tên là Chuyên Tu Tự (專修寺). Vào năm 1396 (Ứng Vĩnh [應永] 3), ông đổi tên chùa thành Chuyên Chiếu Tự, rồi đến năm 1437 (Vĩnh Hưởng [永享] 9), Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Giáo (足利義敎, Ashikaga Yoshinori) cúng dường lãnh địa Lộc Uyển Viện (鹿苑院) ở vùng Việt Hậu (越後, Echigo). Dưới thời đại của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa), chùa trở thành ngôi chùa Môn Tích rất nổi tiếng và hưng thạnh; nhưng đến năm 1873 (Minh Trị [明治] 6) thì phụ thuộc vào Phái Đại Cốc của Chơn Tông. Đến năm 1878 (Minh Trị 11), chùa độc lập tách riêng ra, lập thành phái Tam Môn Đồ.
(大覺寺, Daikaku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Giác Tự (大覺寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Sagaōzawa-chō (嵯峨大澤町), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市), còn được gọi là Tha Nga Ngự Sở (嵯峨御所), Đại Giác Tự Môn Tích (大覺寺門跡). Nguyên lai xưa kia chùa là Ly Cung của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823), Không Hải Đại Sư điêu khắc tượng Ngũ Đại Minh Vương (五大明王) và kiến lập Ngũ Giác Viện (五覺院). Khi gặp bệnh dịch hoành hành, Đại Sư cho đọc tụng Bát Nhã Tâm Kinh do tự tay mình viết và nạp vào Tâm Kinh Đường (心經堂). Vào năm 876 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 18), thể theo lịnh chỉ của Hoàng Hậu Chánh Tử (正子), chùa được khai sáng và ban tặng cho Hoàng Tử thứ 2 là Thân Vương Hằng Tịch (恆寂, Kōjaku). Thân Vương an trí tượng A Di Đà, chỉnh trang cảnh quan chùa, và vào năm 878 (niên hiệu Nguyên Khánh [元慶] thứ 2), chùa được phép cho độ mỗi năm 2 người. Đến năm 918 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 18), Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) thọ trì hai bộ Quán Đảnh tại chùa này, và Khoan Không (寛空) làm vị Tổ đời thứ 2 của chùa. Trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Nguyên (天元, 978-983), chùa thuộc quyền quản lý của Nhất Thừa Viện (一乘院) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji). Đến năm 1268 (niên hiệu văn vĩnh thứ 5), Hậu Tha Nga Thiên Hoàng (後嵯峨天皇, Gosaga Tennō, tại vị 1242-1246) đến tu tại đây, rồi sau đó Quy Sơn Thiên Hoàng (龜山天皇, Kameyama Tennō, tại vị 1259-1274) cũng đến nhập chúng. Vào năm 1307 (niên hiệu Đức Trị [德治] thứ 2), Hậu Vũ Đa Thiên Hoàng (後宇多天皇, Gouda Tennō, tại vị 1274-1287) tiến hành tổ chức Viện Chính tại Thọ Lượng Viện (壽量院), cho xây dựng phòng ốc và trở thành vị Tổ thời Trung Hưng của chùa. Đến năm 1336 (niên hiệu Kiến Võ thứ 3), chùa bị cháy toàn bộ. Năm 1392 (niên hiệu Nguyên Trung thứ 9), ngay tại chùa này, Hậu Quy Sơn Thiên Hoàng (後龜山天皇, Gokameyama Tennō, tại vị 1383-1392) nhường thần khí lại cho Hậu Tiểu Tùng Thiên Hoàng (後小松天皇, Gokomatsu Tennō, tại vị 1382-1412) và nơi đây trở thành vũ đài lịch sử đấu tranh. Đời đời chư vị Thân Vương đều làm trú trì ở đây, mặc dầu bị đốt cháy tan tành trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), nơi đây vẫn trở thành ngôi chùa Môn Tích và rất hưng thịnh. Chính các dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), Đức Xuyên (德川, Tokugawa) đã từng hộ trì đắc lực cho chùa, nhưng kể từ cuối thời Giang Hộ trở đi thì trở nên hoang phế. Dưới thời Minh Trị Duy Tân, có khi chẳng ai trú trì ở đây cả, rồi sau đó nhóm Nam Ngọc Đế (楠玉諦), Cao Tràng Long Sướng (高幢龍暢) đã tận lực phục hưng lại hiện trạng. Khách Điện (客殿) của chùa là kiến trúc thời Đào Sơn (桃山, Momoyama), trong đó có 13 bức tranh tùng và chim ưng. Thần Điện (宸殿) là kiến trúc cung điện đầu thời thời Giang Hộ, có 18 bức tranh hoa Mẫu Đơn, 8 bức Hồng Mai với bút tích của Thú Dã Sơn Lạc (狩野山樂, Kanō Sanraku, 1559-1635), do Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) hiến cúng. Trong Ngũ Đại Đường (五大堂) có an trí tượng Ngũ Đại Minh Vương thuộc cuối thời Bình An và một số tượng khác. Bảo vật của chùa có đồ hình Ngũ Đại Hư Không Tạng (五大虛空藏), Khổng Tước Kinh Âm Nghĩa (孔雀經音義), v.v.
(曼荼羅寺, Mandara-ji): còn gọi là Tùy Tâm Viện (隨心院), Ngưu Bì Sơn Mạn Trà La Tự (牛皮山曼荼羅寺), Tùy Tâm Viện Môn Tích (隨心院門跡), Tiểu Dã Môn Tích (小野門跡); ngôi chùa trung tâm của Phái Thiện Thông Tự (通善寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông; hiện tọa lạc tại Onogorei-chō (小野御靈町), Yamashina-ku (山科區), Kyoto-shi (京都市), nơi hành hương thứ 72 trong số 88 ngôi danh lam ở vùng Tứ Quốc (四國, Shikoku). Chùa do Không Hải Đại Sư sáng lập, xuất phát từ nhân duyên Đại Sư nằm mộng thấy mẹ mình sành làm thân con trâu, bèn đến thăm và đem con trâu ấy về nuôi. Khi trâu chết, Đại Sư lấy da trâu vẽ đồ hình Mạn Trà La dâng cúng. Đây là nơi xuất phát của Dòng Tiểu Dã (小野流). Sau này Tăng Tuấn (僧俊) lại phân phái thành Dòng Tùy Tâm Viện (隨心院流). Trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa bị hoang phế, rồi Tăng Hiếu (僧孝) tiến hành phục hưng chùa, và nhóm Thiên Chơn Viện (天眞院) tạo dựng các ngôi đường tháp. Bảo vật của chùa có đồ hình Mạn Trà La thêu bằng chỉ ngũ sắc, tượng gỗ A Di Đà Như Lai ngồi, v.v.
(仁和寺, Ninna-ji): ngôi chùa tọa lạc tại Sakyō-ku (左京區), Kyōto-shi (京都市), còn được gọi là Ngự Thất Ngự Sở (御室御所), Nhân Hòa Tự Môn Tích (仁和寺門蹟), là ngôi chùa trung tâm Tổng Bản Sơn của Phái Ngự Thất (御室派) thuộc Chơn Ngôn Tông. Vào năm 886 (niên hiệu Nhân Hòa [仁和] thứ 2), Quang Hiếu Thiên Hoàng (孝光天皇, Kōkō Tennō) cho thiết lập ngôi già lam ở phía nam Đại Nội Sơn (大內山), nhưng giữa chừng thì băng ngự; sau đó, kế thừa di chí của phụ thân, Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō) tiếp tục công trình xây dựng; đến năm 888 (niên hiệu Nhân Hòa thứ 4) thì hoàn thành, cho tôn trí tôn tượng A Di Đà Tam Tôn và lấy tên là Nhân Hòa Tự. Về sau, Vũ Đa Thiên Hoàng nhường ngôi lại cho Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō), rồi theo xuất gia với Ích Tín (益信, Yakushin) và cuối cùng băng ngự tại chùa này. Từ đó trở về sau, từ thời vị Pháp Thân Vương Tánh Tín (性信, Shōshin), cho đến đầu thời Minh Trị (明治, Meiji), chư vị Pháp Thân Vương vẫn tiếp tục hộ trì cho chùa. Các ngôi đường xá của chùa được tạo lập trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永, 1624-1644), bao gồm luôn cả các ngôi điện trong cung nội. Bức A Di Đà Tam Tôn là tượng thuộc loại quốc bảo có dạng thức kiến tạo đương thời. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật khác như tượng vẽ Khổng Tước Minh Vương (孔雀明王) thuộc thời Nam Tống của Trung Quốc, cũng như các tranh tượng Mật Giáo. Bên cạnh đó, còn có các bản sao cổ như Biệt Tôn Tạp Ký (別尊雜記) 57 quyển—bộ sách thâu tập các tranh tượng do Tâm Giác (心覺, Shinkaku, 1117-1180) soạn, Y Tâm Phương (醫心方, bản chép tay dưới thời Bình An) 5 thiếp—sách y học tối cổ của Nhật Bản do Đơn Ba Khang Lại (丹波康賴, Tamba-no-Yasunori, 912-995) biên, v.v.
(親嚴, Shingon, 1151-1236): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu và giữa thời Liêm Thương, trú trì đời thứ 98 của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), Tự Trưởng đời thứ 55 của Đông Tự (東寺, Tō-ji), húy là Thân Nghiêm (親嚴), thông xưng Đường Kiều Đại Tăng Chánh (唐橋大僧正), Tùy Tâm Viện Đại Tăng Chánh (隨心院大僧正), Việt Hậu Đại Tăng Chánh (越後大僧正), xuất thân vùng Kyoto, con của vị Trưởng Quan Kami vùng Phi Đạn (飛驒, Hida) là Trung Nguyên Thân Quang (中原親光). Ông theo hầu Chuyên Niệm (專念), học về Mật Giáo; đến năm 1181 thì thọ phép Quán Đảnh với Hiển Nghiêm (顯嚴) ở Pháp Trú Tự (法住寺). Ông đã từng tu phép cầu mưa ở Thần Tuyền Uyển (神泉苑) để cầu nguyện cho cung phi sinh sản an toàn. Vào năm 1228, ông làm Tự Trưởng, Pháp Vụ cũng như Hộ Trì Tăng của Đông Tự. Năm 1229, ông nhận tuyên chỉ của triều đình ban cho Tùy Tâm Viện (隨心院) ở vùng Tiểu Dã (小野, Ono) trở thành ngôi chùa Môn Tích. Đến năm 1235, ông làm Biệt Đương của Đông Đại Tự.
(淨土宗, Jōdo-shū): tông phái tin vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀佛), và tuyên thuyết rằng nhờ xưng danh hiệu của đức Phật ấy mà tất cả chúng sanh đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tịnh Độ (極樂淨土). Vị tông tổ là Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空, Hōnenbō Genkū). Tổng Bản Sơn (ngôi chùa tổ) của tông phái này là Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in), hiện tọa lạc tại Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市). Vào tháng 3 năm đầu (1175) niên hiệu An Nguyên (安元), khi đang tu hành trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), Nguyên Không nhân đọc được bản Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (觀無量壽經疏) của Thiện Đạo (善導), có được niềm tin sâu xa, nên ông quay về với pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật. Sau đó, ông hạ sơn, chuyển đến Tây Sơn Quảng Cốc (西山廣谷), nhưng không bao lâu sau lại dời về vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimuzu), Lạc Đông (洛東, Rakutō) và chuyên tâm bố giáo tại đây. Đến năm thứ 9 (1198) niên hiệu Kiến Cửu (建久), ông soạn bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) để thể hiện lập trường cứu độ kẻ phàm phu, lấy 3 bộ Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經), A Di Đà Kinh (阿彌陀經) cũng như Vãng Sanh Luận (徃生論) của Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) làm kinh luận y cứ cho tông phái, và chọn việc an tâm, khởi hành, tác nghiệp làm phương pháp tu hành. Tư tưởng của ông đã tạo ảnh hưởng to lớn đối với xã hội đương thời. Đặc biệt, nó đã kích động các tông phái của Phật Giáo cũ, làm gia tăng số lượng người ủng hộ pháp môn Niệm Phật và tạo ác cảm không ít. Sự đàn áp từ sự kiện của Trú Liên (住蓮) cũng như An Lạc Phòng Tuân Tây (安樂房遵西) ngày càng trở nên mãnh liệt, dẫn đến đình chỉ Niệm Phật; vì vậy vào năm đầu (1207) niên hiệu Thừa Nguyên (承元), từ Nguyên Không trở xuống cho đến nhóm đệ tử Thân Loan (親鸞, Shinran) đều bị lưu đày (gọi là Pháp Nạn Thừa Nguyên); nhưng từ đó số lượng người ủng hộ như hàng võ sĩ, nông dân lại tăng lên cao hơn. Vào năm thứ 2 (1212) niên hiệu Kiến Lịch (建曆), khi Nguyên Không qua đời, vị môn hạ trưởng lão Pháp Liên Phòng Tín Không (法蓮房信空) lên kế thừa, muốn thống lãnh giáo đoàn, nên về mặt đối ngoại ông đã tạo sự luận tranh đối kháng với vị tổ của Trường Lạc Tự (長樂寺, Chōraku-ji) là Long Khoan (隆寬). Chính vì vậy, giáo đoàn gặp Pháp Nạn Gia Lộc (嘉祿法難), miếu thờ của Nguyên Không bị phá hoại, Long Khoan thì bị lưu đày đến địa phương Lục Áo (陸奥, Mutsu); nhưng kết quả việc này đã tạo sự khích lệ vô cùng to lớn cho sự phát triển Tịnh Độ Giáo ở vùng Quan Đông (關東, Kantō). Dòng phái của Long Khoan vốn chủ trương Đa Niệm Nghĩa (多念義) thì được nhóm Trí Khánh (智慶) thọ dung; riêng Hạnh Tây (幸西), người chủ trương Nhất Niệm Nghĩa (一念義), thì bị lưu đày đến Nhất Khi (壱岐), nhưng lại được nhóm Minh Tín (明信) ủng hộ. Dòng phái của Trường Tây (長西), người chủ trương Chư Hạnh Bổn Nguyện Nghĩa (諸行本願義) cũng hưng thạnh một thời, nhưng dần dần suy tàn. Mặt khác, vị tổ của môn đồ vùng Tử Dã (紫野, Murasakino) là Nguyên Trí (源智) lại khuyến khích triển khai hoạt động báo ân cho Nguyên Không, tạc bức tượng Phật A Di Đà (hiện an trí tại Ngọc Quế Tự [玉桂寺] thuộc Shiga-ken) để kết duyên với mọi người, nỗ lực phục hưng Tri Ân Viện và có được số lượng tín đồ khá đông. Bên cạnh đó, Chứng Không (証空), vị tổ của Tây Sơn Nghĩa (西山義), thì hoạt động dựa trên bối cảnh thế lực của Từ Viên (慈圓), làm cho Tịnh Độ Giáo thẩm thấu vào trong tầng lớp võ sĩ và quý tộc. Như vậy, sau khi Nguyên Không qua đời, giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật đã phân hóa thành từng nhóm khác nhau và trở thành thời đại không thống nhất về mặt chính trị cũng như tổ chức giáo đoàn. Lương Trung (良忠), đệ tử của Biện Trường (辨長)—vị tổ của Trấn Tây Nghĩa (鎭西義) vốn hoạt động ở vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū), đã đi qua vùng kinh đô Kyōto, Tín Nùng (信濃, Shinano), xuống Quan Đông (關東, Kantō), được cả dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba) quy y theo và giáo hóa khắp các nơi; nhưng trở thành bất hòa từ vấn đề kinh tế tại đây nên ông tiến về vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Đại Phật Triêu Trực (大佛朝直) quy y theo, sáng lập Ngộ Chơn Tự (悟眞寺) và xác lập cơ sở ở địa phương này. Ngay như tu sĩ của các tông phái khác cũng tín nhiệm ông, nên ông rất nổi tiếng; nhưng vì cao tuổi và để sửa đổi lại những điều không thống nhất trong giáo nghĩa Tịnh Độ Tông, ông xuống Kyōto và cùng hòa hợp với Tín Huệ (信慧), đệ tử của Nguyên Trí (源智). Từ đó, ông thống nhất với môn đồ vùng Tử Dã, tạo thành cứ địa cho Dòng Trấn Tây Chánh Thống. Sau khi Lương Trung qua đời, Lương Hiểu (良曉) của Bạch Kỳ Phái (白旗派), Tánh Tâm (性心, tức Tánh Chơn [性眞]) của Đằng Điền Phái (藤田派), Tôn Quán (尊觀) của Danh Việt Phái (名越派, cả ba được gọi là Ba Phái Quan Đông), Nhiên Không (然空) của Nhất Điều Phái (一條派), Đạo Quang (道光) của Tam Điều Phái (三條派), Từ Tâm (慈心) của Mộc Phan Phái (木幡派, cả ba được gọi là Ba Phái Kinh Đô) phân hóa rõ rệt, mỗi người tự nỗ lực mở rộng giáo tuyến cho giáo phái mình. Khi chủ trương này càng lúc càng mạnh mẽ, ba đời của Tịnh Độ Tông gồm Nguyên Không, Biện Trường, Lương Trung càng được xác định rõ và Dòng Trấn Tây trở thành dòng phái chính của Tịnh Độ Tông. Riêng cuộc luận tranh giữa Danh Việt Phái và Bạch Kỳ Phái vẫn tiếp diễn cho đến thời đại Minh Trị (明治, Meiji). Danh Việt Phái lấy Fukushima-ken (福島縣) làm cứ địa để mở rộng giáo tuyến ở vùng đông bắc, còn Bạch Kỳ Phái thì mở rộng bố giáo ở trung tâm vùng Quan Đông. Đặc biệt, đến thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi), có vị học tăng Tây Liên Xã Liễu Dự Thánh Quynh (西蓮社了譽聖冋) xuất hiện, đưa ra thuyết Ngũ Trùng Tương Truyền (五重相傳) để hệ thống hóa lại toàn bộ huyết mạch cũng như giáo nghĩa và tạo quyền uy đối với các tông phái khác. Sau đó, đệ tử ông là Đại Liên Xã Tây Dự Thánh Thông (大蓮社西譽聖聰) đã sáng lập Tăng Thượng Tự (増上寺) để nuôi dưỡng nhân tài. Hành Liên Xã Đại Dự Khánh Trúc (行蓮社大譽慶竺), đệ tử của Thánh Thông, tiến về kinh đô Kyōto và trú tại Tri Ân Tự (知恩寺, Chion-ji). Nhóm đệ tử của Thông Liên Xã Thán Dự Lương Triệu (聰蓮社嘆譽良肇), người khai sáng Hoằng Kinh Tự (弘經寺) ở Phạn Chiểu (飯沼), tiến về địa phương Tam Hà (三河, Mikawa), sáng lập Đại Ân Tự (大恩寺, Daion-ji), Đại Thọ Tự (大樹寺, Daijū-ji), Tín Quang Minh Tự (信光明寺, Shinkōmyō-ji), lấy những nơi này làm bàn đạp tiến về kinh đô Kyōto; cuối cùng Bạch Kỳ Phái làm chủ thế lực chiếm cứ toàn bộ vùng này. Sau đó, Tri Ân Viện và Tri Ân Viện tranh giành ngôi vị chủ tôn. Tịnh Hoa Viện (淨華院), căn cứ địa của Dòng Nhất Điều, được sự hộ trì của dòng họ Vạn Lý Tiểu Lộ (萬里小路) và trở nên hưng thịnh, nhưng lại bị quý tộc hóa. Trong lúc đó, Lương Như (良如)—đệ tử của Kính Pháp (敬法)—cũng tận lực giáo hóa hàng thứ dân ở địa phương Việt Tiền (越前, Echizen), còn Long Nghiêu (隆堯)—đệ tử của Định Huyền (定玄)—thì giáo hóa tại vùng Cận Giang (近江, Ōmi) và mở rộng giáo tuyến của họ. Như vậy, Tịnh Độ Tông đã được tổ chức hóa về mặt giáo nghĩa, tại các địa phương đều hình thành cơ sở hoạt động, nhưng không thống nhất. Nhân vật tổng hợp thống nhất toàn bộ những thế lực phân tán như vậy là Trinh Liên Xã Nguyên Dự Tồn Ứng (貞蓮社源譽存應), người từng lấy quyền lực của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) làm thế lực. Tồn Ứng chế ra Chế Độ Đàn Lâm (檀林制度), dựa trên Pháp Độ Nguyên Hòa (元和法度, các pháp độ của Tịnh Độ Tông) để xác lập Chế Độ Bản Mạt (本末制度, chế độ chùa tổ chùa con) và lập ra giáo đoàn mang tính hữu cơ. Tuy nhiên, dần dần nảy sinh hiện tượng sa đọa, phóng túng và thế tục hóa trong giáo đoàn. Đến thời Trung Kỳ của thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), lại xuất hiện những vị tăng xa lìa thế tục như Đàn Thệ (彈誓), Tồn Dịch (存易), cuộc vận động hành trì giới luật của nhóm Linh Đàm (靈潭) cũng bộc phát và đã đem lại tính cách cách tân cho giáo đoàn. Về mặt giáo học, có nhóm Lương Định (良定), Văn Hùng (文雄) xuất hiện, tạo sự chú tâm của mọi người, nhưng cuối cùng cũng không có ảnh hưởng nào. Khi chính phủ Duy Tân (維新) ra đời, giáo đoàn đã gặp phải làn sóng Phế Phật Hủy Thích. Chế Độ Tri Ân Viện Môn Tích (知恩院門跡制度) bị phế chỉ và phải chịu biết bao thử thách đồng dạng với các tông phái khác. Tuy nhiên, nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của nhóm Phước Điền Hành Giới (福田行誡), giáo đoàn đã vượt qua thời kỳ hỗn loạn. Đến hậu bán thời đại Minh Trị (明治, Meiji), Tịnh Độ Tông đã xác lập thể chế với tư cách là giáo đoàn cận đại. Về mặt học vấn, có những học giả lãnh đạo giới Phật Giáo Học như Vọng Nguyệt Tín Hanh (望月信亨), Độ Biên Hải Húc (渡邊海旭) xuất hiện, đã tạo nên thời đại hoàng kim của Tịnh Độ Tông từ niên hiệu Đại Chánh (大正, Taishō, 1912-1926) đến Chiêu Hòa (昭和, Shōwa, 1926-1989). Ngoài ra, cuộc vận động tín ngưỡng bắt đầu dấy khởi như Cọng Sanh Hội (共生會) của Chuy Vĩ Biện Khuông (椎尾辨匡), Quang Minh Hội (光明會) của Sơn Khi Biện Vinh (山崎辨榮), v.v., tập trung sự quan tâm của đa số quần chúng. Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, phát sanh vấn đề độc lập phân phái trong Tịnh Độ Tông và cuối cùng vào năm thứ 36 (1961) niên hiệu Chiêu Hòa thì tông phái này đã thống nhất thành một thể. Hiện tại theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản, còn lại các phái như sau: Tịnh Độ Tông (淨土宗) có 7080 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Trấn Tây Thâm Thảo Phái (淨土宗鎭西深草派) có 283 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Tây Sơn Thiền Lâm Tự Phái (淨土宗西山禪林寺派) có 372 ngôi chùa, và Tây Sơn Tịnh Độ Tông (西山淨土宗) có 603 ngôi chùa. Một số ngôi tự viện trung tâm, nổi tiếng của tông phái này có Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in, Kyōto-shi); Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji, Kyōto-to); Kim Giới Quang Minh Tự (金戒光明寺, Konkaikōmyō-ji, Kyōto-shi); Bách Vạn Biến Tri Ân Tự (百萬遍知恩寺, Hyakumanbenchion-ji, Kyōto-shi); Thanh Tịnh Hoa Viện (清淨華院, Shōjōkein, Kyōto-shi); Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji, Fukuoka-ken); Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji, Kanagawa-ken); Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji, Nagano-ken); Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji, Kyōto-shi); Thệ Nguyện Tự (誓願寺, Seigan-ji, Kyōto-shi), v.v.
(知恩院, Chion-in): ngôi chùa Tổng Bản Sơn của Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại Higashiyama-ku (東山區), Kyoto (京都市), gọi cho đủ là Hoa Đảnh Sơn Tri Ân Giáo Viện Đại Cốc Tự (華頂山知恩敎院大谷寺). Pháp Nhiên Thượng Nhân (法然上人, Hōnen Shōnin) được xem như là người khai sơn ngôi viện này, và vị pháp đệ của ông Thế Quán Phòng Nguyên Trí (勢觀房源智) là người sáng kiến. Vào năm 1175, qua bộ Quán Kinh Sớ (觀經疏) của Thiện Đạo Đại Sư (善導大師), Pháp Nhiên Thượng Nhân ngộ được rằng việc xưng danh hiệu Di Đà là con đường thích hợp với bản nguyện của Như Lai, nên ông khai sáng ra Tịnh Độ Tông. Sau đó, ông dựng một ngôi thảo am ở vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimizu), cho dù có bị áp bức thế nào đi nữa ông vẫn truyền bá pháp môn Niệm Phật, và đến năm 1211, lúc 80 tuổi, ông thị tịch ở Thiền phòng (nay là thuộc nơi gần bên Thế Chí Đường) nơi vùng Đại Cốc (大谷, Ōtani) thuộc Đông Sơn (東山, Higashiyama). Chúng môn đệ của ông mới an táng di cốt của ông nơi một góc phòng ở, rồi lập nên Miếu Đường để thờ phụng. Sau đó, phòng xá này bị chúng đồ của Sơn Môn phá hại, nên hài cốt của Thượng Nhân được dời về vùng Tha Nga (嵯峨, Saga), rồi làm lễ Trà Tỳ ở vùng Lật Sanh Dã (栗生野, nay ở cạnh bên Quang Minh Tự [光明寺]), và đem an táng ở vùng Tiểu Thương Sơn (小倉山). Về sau, vào năm 1234, Thế Quán Phòng Nguyên Trí lo sợ di tích ở vùng Đại Cốc bị phế diệt, nên mới thỉnh cầu Tứ Điền Thiên Hoàng (四條天皇, Shijō Tennō), và xây dựng lại Điện Phật, Ảnh Đường, Tổng Môn, v.v, lấy tên là Đại Cốc Tự (大谷寺). Nguồn gốc của chùa này là như vậy. Sau đó các đường vũ dần dần được xây dựng thêm, chùa trở rất hưng thạnh với tư cách là bản cứ của Tịnh Độ Tông, song đến năm 1434 chùa lại bị cháy rụi tan tành do hỏa tai. Đến thời vị Tổ đời thứ 20 của chùa là Không Thiền (空禪, Kūzen), ông mới thỉnh cầu sự ủng hộ của Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Giáo (足利義敎, Ashikaga Yoshinori), rồi mãi mấy năm sau thì mới tái kiến được các ngôi đường vũ và làm cho cảnh quan cũ trở lại như xưa. Vào năm 1467, nhân vụ loạn Ứng Nhân (應仁), chùa lại bị thiêu cháy rụi, vị Tổ kế thế đời thứ 22 của chùa là Châu Dữ (周與) thì chạy trốn lên vùng Cận Giang (近江, Ōmi), và xây dựng lên một ngôi chùa khác. Đây chính là ngôi Tân Tri Ân Viện (新知恩院) ngày nay. Rồi đến 11 năm sau, tức vào năm 1478, ông thỉnh cầu Túc Lợi Nghĩa Chính (足利義政), xây dựng lại A Di Đà Đường và Ngự Ảnh Đường ở vùng đất cũ. Nhưng sau đó thì chùa cũng mấy lần bị hỏa hoạn cháy tan tành, mãi đến năm 1524 chùa mới được Hậu Bá Nguyên Thiên Hoàng (後柏原天皇, Gokashiwabara Tennō) cho phép gọi tên là Tổng Bản Sơn của Tịnh Độ Tông. Rồi Hậu Nại Lương Thiên Hoàng (後奈良天皇, Gonara Tennō) còn gởi sắc phong ban tên chùa là Tri Ân Giáo Viện Đại Cốc Tự (知恩敎院大谷寺). Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) thì quy y với vị đệ tử kế thế đời thứ 29 của chùa là Tôn Chiếu (尊照, Sonshō), cho nên Đại Ngự Ảnh Đường rồi các ngôi đường vũ khác đươc xây dựng lên, đăc biệt Cung Môn Tích (宮門跡) là nơi xuống tóc xuất gia của vị Hoàng Tử thứ 8 của Dương Thánh Thiên Hoàng (陽成天皇, Yōzei Tennō) là Lương Vụ Thân Vương (良輔親王). Tuy nhiên, ngôi già lam do Gia Khang tạo dựng cũng biến thành tro bụi vào năm 1633, rồi sau đó thì vị Tướng Quân đời thứ 3 của dòng họ Đức Xuyên là Gia Quang (家光, Iemitsu) mới phục hưng lại cảnh quang như xưa. Sau thời Gia Quang, đời đời con cháu dòng họ Đức Xuyên cũng luôn thâm tín quy ngưỡng với chùa này, và đã cúng dường ngoại hộ rất nhiều vô số kể. Đến thời Minh Trị, chùa được công nhiên gọi tên là chùa Môn Tích. Thêm vào đó, vào năm 1887, chức Quản Trưởng của Tịnh Độ Tông cũng được chế định ra để thống suất toàn giáo đồ Sơn Môn. Hiện tại, chánh điện chùa (tức Ngự Ảnh Đường), kiến trúc được Đức Xuyên Gia Quang tái kiến vào năm 1633, là kiến trúc đồ sộ được xếp nhất nhì ở vùng Kyoto. Ngoài ra Tam Môn, Đường Môn, Kinh Tàng, Thế Chí Đường, Đại Phương Trượng, Tiểu Phương Trượng, v.v, là những quần thể được kiến trúc được xếp vào di sản văn hóa quốc gia. Hiện chùa vẫn còn lưu lại nhiều bảo vật quý giá như 48 quyển tranh vẽ về Pháp Nhiên Thượng Nhân, tranh vẽ 25 vị Bồ Tát Lai Nghênh, v.v.
(院家, Inge): từ ám chỉ các Tăng Ni xuất gia vốn xuất thân dòng dõi Thân Vương hay quý tộc; đặc biệt từ này còn chỉ cho ngôi chùa nơi các vị này ở. Nó cũng được dùng đồng nghĩa với từ Môn Tích (門跡, monzeki), nhưng đến cuối thời Trung Đại thì từ này có ý nghĩa là những ngôi tự viện mà có nguồn gốc cũng như cách thức kế sau Môn Tích. Nguyên lai từ Viện (院) có nghĩa là tòa kiến trúc có hàng rào chắn chung quanh ngôi Viện trong khuôn viên chùa có Chánh Điện, đường xá, cùng các tài sản khác, thì cũng giống như trường hợp ngôi Thiền Viện ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) của Đạo Chiêu (道昭, Dōshō) phát triển thành nơi trú ngục của các vị Tăng có thế lực ở trong chùa. Trường hợp ngự thất của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō), vị vua xuất gia sống ở Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), cũng gọi là Viện, và những người đi theo xuất gia với Thiên Hoàng được gọi là Viện Gia. Vào cuối thời Bình An, phong trào xuất gia của hàng Thân Vương và quý tộc càng lúc càng thịnh hành, đặc biệt vào thời kỳ Viện Chính (院政), Thanh Liên Viện (青蓮院), Viên Dung Viện (圓融院), Diệu Pháp Viện (妙法院) ở Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), rồi Nhất Thừa Viện (一乘院), Đại Thừa Viện (大乘院) ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), giành được địa vị Môn Tích Tự Viện; cho nên hàng con cháu của lớp quyền môn thế gia xuất gia nhập tự, được gọi là Viện Gia hay Viện Gia Chúng. Viện Gia là xưng hiệu của các vị Tăng có địa vị thân phận cao, chứ không phải là phàm Tăng, và cũng có trường hợp từ Viện Gia thăng tiến lên Môn Tích. Dưới thời đại Thất Đinh, trường hợp Viện Gia của sơn môn Diên Lịch Tự, bên cạnh 3 ngôi Viện như đã liệt kê ở trên, tiếp theo còn có An Cư Viện (安居院), Thạch Tuyền Viện (石泉院), Tỳ Sa Môn Đường (毘沙門堂), Tôn Thắng Viện (尊勝院), v.v. Về phía Chơn Ngôn Tông, Tam Bảo Viện (三寶院), Lý Tánh Viện (理性院) ở Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji) được nâng lên thành Viện Gia. Các Viện Gia này không nhận phàm Tăng đến tu, chỉ cho con cháu thuộc dòng dõi quý tốc vào tu để tương truyền, giữ gìn các ngôi đưỡng vũ cũng như tài sản của Viện. Tuy nhiên, đối với trường hợp Chơn Tông, vào năm 1559, Hiển Như (顯如, Kennyo) được cho phép gọi chùa ông là Thế Tập Môn Tích (世襲門跡); rồi đến năm sau, thể theo sắc lịnh của Cung Tôn Trợ Pháp Thân Vương (宮尊助法親王) ở Thanh Liên Viện, 9 ngôi chùa trong đó có Thường Lạc Tự (常樂寺) ở vùng Đại Hòa (大和, Yamato), Giáo Hành Tự (敎行寺) ở Nhiếp Tân (攝津, Settsu), được công nhận vào hàng Viện Gia, và chế độ bổ trợ Viện Gia cho các chùa Môn Tích được thành lập.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập