Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Huyền cơ »»

(眞機): lý huyền diệu, bí yếu. Như trong bài thơ Tống Đạm Công Quy Tung Sơn Long Đàm Tự Táng Bổn Sư (送淡公歸嵩山龍潭寺葬本師) của Dương Cự Nguyên (楊巨源, 755-?) nhà Đường có câu: “Dã yên thu hỏa thương mang viễn, Thiền cảnh chơn cơ khử trú nhàn (野煙秋火蒼茫遠、禪境眞機去住閒, khói hoang thu lửa xanh xa tít, Thiền cảnh Huyền cơ mặc sống nhàn).” Hay trong bài thơ Hòa Giả Vân Lão Xuân Vãn (和賈耘老春晚) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống cũng có câu: “Nhất ngọa hải thành xuân hựu vãn, bất phương nhàn xứ đắc chơn cơ (一臥海城春又晚、不妨閒處得眞機, nằm xuống biển thành xuân lại xế, ngại gì nhàn chốn được Huyền cơ).” Hay trong Vô Dị Nguyên Lai Thiền Sư Quảng Lục (無異元來禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1435) quyển 20, phần Khai Thị Kệ (開示偈), lại có câu: “Quế hoa hương xứ lộ chơn cơ, chánh thị tâm không cập đệ thời (桂花香處露眞機、正是心空及第時, quế hoa hương ngát lộ cơ duyên, đúng lúc tâm không thị đỗ về).” Hoặc trong Kiềm Nam Hội Đăng Lục (黔南會燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1591) cũng có đoạn rằng: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, thị dĩ cửu niên diện bích, độc khế chơn cơ, chích lý Tây quy (敎外別傳、不立文字、直指人心、見性成佛、是以九年面壁、獨契眞機、隻履西歸, ngoài giáo truyền riêng, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tán thành Phật, vì vậy chín năm nhìn vách, riêng khế Huyền cơ, một dép về Tây).”
(獨庵道衍, Dokuan Dōen, 1335-1418): vị Thiền tăng sống vào đầu thời nhà Minh, xuất thân Trường Châu (長洲, Huyện Ngô, Tỉnh Giang Tô), họ là Diêu (姚), tên Quảng Hiếu (廣孝), hiệu Độc Am (獨庵). Năm 14 tuổi, ông xuất gia, ban đầu học Thiên Thai giáo học, sau theo Trí Cập (智及) ở Kính Sơn (徑山) tham Thiền và đạt được yếu chỉ. Sau đó, ông làm trú trì một số chùa như Phổ Khánh Tự (普慶寺) ở Lâm An (臨安), Thiên Long Tự (天龍寺) ở Hàng Châu (杭州), Lưu Quang Tự (留光寺) ở Gia Định (嘉定). Ông có năng khiếu về thi văn, lại sở trường về thuật số âm dương, và rành về hội họa. Yến Vương cùng ông đàm luận rất tâm đắc; thỉnh thoảng ông sống trong phủ nội với nhà vua, cùng vua bàn chuyện cơ mật, có công đệ nhất nên được tôn làm Thái Tử Thiếu Sư và người đời gọi ông là Diêu Thiếu Sư (姚少師). Nhà vua lại ra lệnh cho ông để tóc mặc quan phục, nhưng ông từ chối không nhận, thậm chí ban cho cả nhà cửa cung nhân hầu hạ, nhưng rốt cuộc ông chối từ tất cả. Ông từng giám tu cuốn Thái Tổ Bảo Lục (太祖寳錄), Vĩnh Lạc Đại Điển (永樂大典), v.v. Thường ngày ông sống tại Thành Tây Phật Tự (城西佛寺), mặc pháp phục lễ bái tụng kinh, chỉ nuôi dưỡng một người thị giả. Đến năm thứ 6 (1418) niên hiệu Vĩnh Lạc (永樂), ông thị tịch, hưởng thọ 84 tuổi, được ban cho thụy hiệu là Cung Tĩnh (恭靖). Ông từng viết cuốn Đạo Dư Lục (道余錄), khẳng định rằng Phật pháp không thể nào diệt tận, là tác phẩm đối trị với những ngộ nhận và công kích của Nho Giáo dưới thời nhà Tống đối với Phật Giáo. Bên cạnh đó, ông còn để lại nhiều luận thư khác về Tịnh Độ như Tịnh Độ Giản Yếu Lục (淨土簡要錄), v.v. Đối với Nhật Bản, ông cũng có mối quan hệ như đã từng viết lời tựa cho bản Tiêu Kiên Cảo (蕉堅稿) của Tuyệt Hải Trung Tân (絕海中津, 1336-1405) hay Trí Giác Phổ Minh Quốc Sư Ngữ Lục (智覺普明國師語錄) của Xuân Ốc Diệu Ba (春屋妙葩, 1311-1388).
(南泉普願, Nansen Fugan, 748-834): vị Thiền tăng xuất thân vùng Tân Trịnh (新鄭), Trịnh Châu (鄭州, thuộc Tỉnh Hà Nam), họ là Vương (王). Vào năm thứ 2 (757) niên hiệu Chí Đức (至德), ông xin cha mẹ đến xuất gia tu học với Đại Huệ (大慧) ở Đại Ôi Sơn (大隈山), Mật Huyện (密縣, thuộc Tỉnh Hà Nam). Vào năm thứ 12 (777) niên hiệu Đại Lịch (大曆), lúc 30 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới với Cảo Luật Sư (暠律師) ở Hội Thiện Tự (會善寺) vùng Tung Nhạc (嵩岳, Tỉnh Hà Nam). Ban đầu ông học về tánh tướng rồi đến Tam Luận, v.v., nhưng sau ông ngộ được yếu chỉ rằng Huyền cơ vốn nằm ngoài kinh luận, nên ông đến tham vấn Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và kế thừa dòng pháp của vị này. Đến năm thứ 11 (795) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông dừng tích trú tại Nam Tuyền Sơn (南泉山), vùng Trì Dương (池陽, thuộc Tỉnh An Huy), xây dựng Thiền viện, thường mang nón lá chăn trâu, vào trong núi đốn cây, cày ruộng, cổ xướng Thiền phong của mình, tự xưng là Vương Lão Sư và suốt trong vòng 30 năm không hề hạ sơn một lần. Vào đầu niên hiệu Thái Hòa (太和, 827-835), vị Thái Thú xưa kia của Trì Dương là Lục Hoàn (陸亘) đến tham bái Nam Tuyền, rồi tôn vị này làm thầy mình. Chính ông đã giáo hóa khá nhiều đồ chúng nổi danh như Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗), Trường Sa Cảnh Sầm (長沙景岑), Tử Hồ Lợi Túng (子湖利蹤), v.v. Vào ngày 21 tháng 10 năm thứ 8 niên hiệu Thái Hòa (太和), ông cáo bệnh và vào ngày 25 tháng 12 cùng năm trên, ông thị tịch, hưởng thọ 87 tuổi đời và 57 hạ lạp.
(五洩靈黙, Goei Reimoku, 747-818): người vùng Tỳ Lăng (毘陵), họ là Tuyên (宣). Tuy rằng ông làm quan, nhưng vẫn đến tham vấn Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và khế ngộ được Huyền cơ. Sau khi xuất gia và thọ Cụ Túc giới, ông đến làm thị giả cho Thạch Đầu Hy Thiên (石頭希遷) trong vòng mấy năm. Sau đó vào năm đầu (785) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông đến sống tại Phố Dương (浦陽), rồi chuyển đến Ngũ Duệ Sơn (五洩山). Đến ngày 23 tháng 3 năm thứ 13 niên hiệu Nguyên Hòa (元和), ông thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 41 hạ lạp.
(青林師虔, Seirin Shiken, ?-904): họ Trần (陳), xuất thân Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), đã từng đắc pháp với Động Sơn Lương Giới (洞山良价). Ông trú tại Thanh Lâm (青林), Hán Đông (漢東), sau đó làm vị tổ đời thứ 3 của Động Sơn (洞山, Tỉnh Giang Tây). Vào năm đầu niên hiệu Thiên Hựu (天祐), ông thị tịch. Trước tác của ông có Huyền cơ Thị Hối Tập (玄機示誨集).
(無門關, Mumonkan): 1 quyển, tác phẩm do Vô Môn Huệ Khai (無門慧開) nhà Tống chỉ đạo cho đệ tử Tông Chiêu (宗紹) biên tập các ký lục tại Long Tường Tự (龍翔寺) vào năm 1228, và năm sau (năm thứ 2 niên hiệu Thiệu Định [紹定]) thì được san hành. Tên gọi chính thức của tác phẩm này là Thiền Tông Vô Môn Quan (禪宗無門關, Zenshūmumonkan). Nội dung của nó là những bài tụng cũng như bình xướng mà Huệ Khai thêm vào trong 48 tắc công án quan trọng từ xưa đến nay, cùng với Bích Nham Lục (碧巖錄, Hekiganroku), nó được xem như là tập công án đại biểu nhất. Tâm Địa Giác Tâm (心地覺心, 1207-1298), người đã từng sang nhà Tống cầu pháp, khi trở về nước có đem tác phẩm này về và đó là bản đầu tiên được đưa vào Nhật, từ đó về sau, nó được Lâm Tế Tông rất xem trọng, thỉnh thoảng có san hành phổ biến, đặc biệt đến thời Cận Đại nó được quan tâm đến nhiều nhất. So với Bích Nham Lục thì nội dung của nó ít, đơn giản, nhưng là lời trợ ngôn trực tiếp cho người tu tập. Bộ này nổi tiếng với tắc công án thứ nhất là "Triệu Châu Vô Tự" (趙州無字, chữ Không Có của Triệu Châu). Công án này do Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗) nhà Đường trả lời là “không có” khi được một vị tăng hỏi rằng con chó có Phật tánh hay không, và đã đem lại sự chuyển cơ rất lớn cho Thiền Công Án. Tuy nhiên, khi xem như là tập công án, thì thế giới phong phú về mặt văn học của Vô Môn Quan giống như trong Bích Nham Lục lại mất đi, chỉ còn lại ấn tượng nhiều vẻ khô khan, gầy gò mà thôi. Tại Trung Quốc không còn truyền bản nữa, nhưng ở Nhật có một số bản như Bản Ngũ Sơn của năm thứ 4 (1291) niên hiệu Chánh Ứng (正應) và năm thứ 12 (1405) niên hiệu Ứng Vĩnh (應永), bản chữ xưa của năm đầu (1624) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), bản năm thứ 8 (1631) và 9 (1632) cùng niên hiệu trên, v.v. Dưới thời đại Giang Hộ (江戸, Edo, 1603-1867) nó cũng thỉnh thoảng được san hành. Vào thời Trung Đại, người ta vẫn chưa quan tâm gì mấy đến tác phẩm này; nhưng kể từ thời Giang Hộ trở đi, người ta bắt đầu nhận thức được giá trị của nó, cho nên khá nhiều sách chú thích xuất hiện như Thiền Tông Vô Môn Quan Tư Sao (禪宗無門關私鈔) của Quy Bá Huyền Phương (規伯玄方), Vô Môn Quan Sao (無門關鈔) của Vạn An Anh Chủng (萬安英種), Vô Môn Quan Sao (無門關鈔) Tây Bá (西伯) chú giải, Vô Môn Quan Xuân Tịch Sao (無門關春夕鈔), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập