Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hữu Lậu »»
(s: guṇa, 功德): âm dịch là Cụ Nẵng (懼曩), Ngu Nẵng (麌曩), Cầu Na (求那); ý dịch là công đức, phước đức; cũng chỉ cho quả báo có được nhờ làm việc thiện. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 3 có ghi lại đoạn vua Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) nhà Lương hỏi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨) rằng: “Trẫm tức vị dĩ lai, tạo tự tả kinh độ tăng bất khả thắng kỷ, hữu hà công đức ? Sư viết: 'Tinh vô công đức.' Đế viết: 'Hà dĩ vô công đức ?' Sư viết: 'Thử đản nhân thiên tiểu quả Hữu Lậu chi nhân, như ảnh tùy hình tuy hữu phi thật.' Đế viết: 'Như hà thị chơn công đức ?' Đáp viết: 'Tịnh trí diệu viên thể tự không tịch, như thị công đức bất dĩ thế cầu' (朕卽位已來、造寺寫經度僧不可勝紀、有何功德、師曰、幷無功德、帝曰、何以無功德、師曰、此但人天小果有漏之因、如影隨形雖有非實、帝曰、如何是眞功德、答曰、淨智妙圓體自空寂、如是功德不以世求, Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, lập chùa, chép kinh, độ tăng chúng, không thể tính hết, vậy có công đức gì không ? Tổ sư đáp rằng: 'Đều không có công đức gì cả.' Vua hỏi: 'Vì sao không có công đức ?' Tổ sư đáp: 'Đây chỉ là quả báo nhỏ của trời người, có nhân Hữu Lậu, như bóng theo hình tuy có mà không thật.' Vua hỏi: 'Thế nào là công đức chân thật ?' Trả lời rằng: 'Trí trong sạch tròn đầy, thể tự vắng lặng, công đức như vậy không lấy thế gian mà cầu được).” Trong Thắng Man Bảo Quật (勝鬘寶窟, Taishō Vol. 37, No. 1744) quyển Thượng giải thích về nghĩa công đức rằng: “Ác tận viết công, thiện mãn viết đức; hựu đức giả đắc dã, tu công sở đắc, cố danh công đức dã (惡盡曰功、善滿稱德、又德者得也、修功所得、故名功德也, điều ác hết gọi là công, việc thiện tròn đầy gọi là đức; lại nữa đức có nghĩa là đắc [có được], nhờ công năng tu tập mà có được, nên gọi là công đức vậy).” Sự sâu xa, rộng lớn của công đức được ví như biển, nên được gọi là công đức hải (s: guṇa-sāgara, 功德海, biển công đức); rất quý trọng như báu vật nên có tên là công đức bảo (s: guṇa-ratna, 功德寶); và một số từ khác đi với công đức như công đức lâm (功德林, rừng công đức), công đức tụ (功德聚, sự tích lũy công đức), (功德莊嚴, trang nghiêm công đức), công đức tạng (功德藏, kho tàng công đức), v.v.
(s: ṣaḍ-indriyāṇi, 六根): hay còn gọi là Lục Tình (六情), tức 6 cơ quan cảm giác hay năng lực nhận thức, là Sáu Xứ trong Mười Hai Xứ, Sáu Căn Giới trong Mười Tám Giới. Căn (s, p: indriya, 根) có nghĩa là cơ quan nhận thức. Sáu Căn gồm:
(1) Nhãn (s: cakṣus, p: cakkhu, 眼, mắt, cơ quan và năng lực thị giác);
(2) Nhĩ (s: śrotra, śrotas, p: sota, 耳, tai, cơ quan và năng lực thính giác);
(3) Tỷ (s: ghrāṇa, p: ghāna, 鼻, mũi, cơ quan và năng lực khứu giác);
(4) Thiệt (s: jihvā, p: jivhā, 舌, lưỡi, cơ quan và năng lực vị giác);
(5) Thân (s, p: kāya, 身, thân thể, cơ quan và năng lực xúc giác); và
(6) Ý (s: manaḥ, p: mano, manas, 意, ý, cơ quan và năng lực tư duy).
Năm Căn đầu được gọi là Ngũ Căn (五根), thuộc về sắc pháp, có 2 loại: cơ quan sinh lý là Phù Trần Căn (浮塵根, hay Thô Sắc Căn [粗色根]), tức 5 căn này hiện hình trạng ra bên ngoài; còn Ý Căn là nơi nương tựa của tâm để sanh khởi tâm lý, nương vào Phù Trần Căn để có thể phát sinh tác dụng thấy, nghe, hiểu biết, v.v.; có tên là Thắng Nghĩa Căn (勝義根, hay Tịnh Sắc Căn [淨色根]). Như trong Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō No. 945) quyển 6 có dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh, Lục Thức tạo nghiệp, sở chiêu ác báo, tùng Lục Căn xuất (一切眾生、六識造業、所招惡報、從六根出, hết thảy chúng sanh, Sáu Thức tạo nghiệp, ác báo nhận lấy, do Sáu Căn ra).” Hay trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) có giải thích về Lục Căn thanh tịnh rằng: “Lục Ba La Mật giả, tức tịnh Lục Căn dã; Hồ danh Ba La Mật, Hán danh đạt bỉ ngạn, dĩ Lục Căn thanh tịnh, bất nhiễm Lục Trần, tức thị độ phiền não hà, chí Bồ Đề ngạn; cố danh Ba La Mật (六波羅蜜者、卽淨六根也、胡名波羅蜜、漢名達彼岸、以六根清淨、不染六塵、卽是度煩惱河、至菩提岸、故名六波羅蜜, Sáu Ba La Mật tức là làm trong sạch Sáu Căn; người Ấn Độ gọi là Ba La Mật, người Trung Quốc gọi là qua bờ bên kia; do Sáu Căn trong sạch, không nhiễm Sáu Trần, tức là qua sông phiền não, đến bờ Bồ Đề; nên được gọi là Ba La Mật).” Hoặc trong bài Di Sơn Phát Nguyện Văn (怡山發願文) của Thiền Sư Di Sơn Kiểu Nhiên (怡山皎然, ?-?) nhà Đường cũng có câu: “Đệ tử mỗ giáp, tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm, trục sắc thanh nhi tham nhiễm; Thập Triền Thập Sử, tích thành Hữu Lậu chi nhân; Lục Căn Lục Trần, vọng tác vô biên chi tội (弟子某甲、自違眞性、枉入迷流、隨生死以飄沉、逐色聲而貪染、十纏十使、積成有漏之因、六根六塵、妄作無邊之罪, đệ tử …, tự sai chơn tánh, lầm nhập dòng mê, theo sanh tử để thăng trầm, đắm sắc thanh mà tham nhiễm; Mười Triền Mười Sử, tích thành Hữu Lậu nhân sâu, Sáu Căn Sáu Trần, lầm tạo vô biên tội lỗi).”
(瑪瑙, agate): tên gọi của một trong 7 loại trân báu (vàng [金], bạc [銀], Lưu Ly [琉璃], Xa Cừ [硨磲], Mã Não [瑪瑙], San Hô [珊瑚] Hổ Phách [琥珀]). Có thuyết cho rằng ngoại hình nguyên thạch của mã não giống y hệt não bộ con ngựa, nên có tên gọi như vậy. Trong kinh điển Phật Giáo hay Cựu Ước Thánh Kinh đều có ghi rõ sự tích của mã não. Nó là một loại khoáng vật, thuộc loại Ngọc Tủy (玉髓). Từ xưa đến nay, Mã Não được con người rất ưa chuộng, yêu thích, được xếp vào một trong 7 loại báu. Do nó có vân và sắc màu mỹ lệ, từ ngàn xưa người ta đã dùng nó làm đồ trang sức; như trong một số di vật được khai quật lên, thường thấy có những xâu chuỗi hột Mã Não tròn. Tại Trung Quốc, hầu hết các tỉnh đều có loại khoáng vật quý hiếm này, nhiều nhất là ở các địa phương Hắc Long Giang (黑龍江), Liêu Ninh (遼寧), Hồ Bắc (湖北), v.v. Trên thế giới, có nhiều ở Âu Châu, Bắc Mỹ, Đông Nam Á. Nơi nổi tiếng nhất về Mã Não là Ấn Độ, Ba Tây (Brazil), v.v. Sắc màu của nó rất phong phú, nhiều loại khác nhau, nhưng màu hồng là quý hiếm nhất; cho nên trong Cách Cổ Yếu Luận (格古要論) có câu rằng: “Mã Não vô hồng nhất thế cùng (瑪瑙無紅一世窮, Mã Não không hồng một đời hết).” Tuy là màu hồng nhưng nó vẫn có các màu khác nhau như thuần hồng, hồng tía, hồng đậm, hồng nhạt, hồng vàng, hồng trắng, v.v. Từ đó, người xưa thường gọi Mã Não là Xích Ngọc (赤玉, ngọc đỏ) hay Quỳnh (瓊). Hiện tại, một số màu sắc của Mã Não được phân loại thành: Hồng Mã Não (紅瑪瑙, Mã Não Hồng), Lam Mão Não (藍瑪瑙, Mã Não Lam), Tử Mão Não (紫瑪瑙, Mã Não Tía), Lục Mão Não (綠瑪瑙, Mã Não Xanh), Hắc Mã Não (黑瑪瑙, Mã Não Đen), Bạch Mã Não (白瑪瑙, Mã Não Trắng), v.v. Trong Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm (觀世音菩薩普門品) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 妙法蓮華經) có đề cập đến loại trân báu này: “Nhược hữu bách thiên vạn ức chúng sanh, vị cầu kim, ngân, Lưu Ly, Xa Cừ, Mã Não, San Hô, Hổ Phách, chân châu đẳng bảo (若有百千萬億眾生、爲求金銀琉璃硨磲瑪瑙珊瑚琥珀眞珠等寶, nếu có trăm ngàn ức chúng sanh, vì đi tìm các loại của báu, châu ngọc thật như vàng, bạc, Lưu Ly, Xa Cừ, Mã Não, San Hô, Hổ Phách, v.v.).” Hay như trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh (佛說阿彌陀經) cũng có đoạn rằng: “Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, Lưu Ly, Pha Lê, Xa Cừ, Xích Châu, Mã Não nhi nghiêm sức chi (上有樓閣,亦以金、銀、琉璃、玻璃、硨磲、赤珠、瑪瑙而嚴飾之, trên có lầu gác, cũng lấy vàng, bạc, lưu ly, pha lê, ngọc đỏ, mã não để trang trí thật trang nghiêm).”
(s: tri-ratna, ratna-traya, p: ti-ratana, ratanattaya, j: sampō, 三寶): chỉ cho ba ngôi báu, gồm Phật Bảo (佛寶), Pháp Bảo (法寶) và Tăng Bảo (僧寶), mà một tín đồ Phật Giáo cần phải tôn kính, cúng dường; còn gọi là Tam Tôn (三尊). (1) Phật (s, p: buddha, 佛), chỉ cho đấng tự giác ngộ mình và làm cho người khác giác ngộ, là vị giáo chủ phật giáo có thể dạy đỗ, hướng dẫn người khác; hoặc chỉ chung cho chư Phật. (2) Pháp (s: dharma, p: dhamma, 法), là giáo pháp, lời dạy được đức Phật giác ngộ và tuyên thuyết cho người khác. (3) Tăng (s, p: saṅgha, 僧), chỉ cho tập đoàn đệ tử của đức Phật chuyên hành tì, tu tập giáo pháp của Ngài. Thường giáo đoàn này phải 3 người trở lên mới được gọi là Tăng. Ba ngôi báu này có uy đức rất cao tột, vĩnh viễn không thay đổi, giống như bảo vật trên đời, nên có tên là Tam Bảo. Cứu Cánh Nhất Thừa Thật Tánh Luận (究竟一乘寶性論, Taishō Vol. 31, No. 1611) quyển 2 có nêu ra 6 nghĩa của Tam Bảo: (1) Hy hữu, hiếm có, nghĩa rằng ba ngôi này trãi qua trăm ngàn vạn kiếp khó mà găp được, giống như trân bảo trên thế gian vậy. (2) Minh tịnh, trong sạch, nghĩa là ba ngôi báu này xa lìa hết thảy các pháp Hữu Lậu (s: sāsava, p: sāsrava, 有漏); nên không nhơ nhớp mà trong sạch. (3) Có thế lực, nghĩa là ba ngôi báu này đầy đủ năng lực oai đức tự tại không thể nghĩa bàn. (4) Trang nghiêm, nghĩa là ba ngôi báu này có thể trang nghiêm cõi xuất thế gian; giống như các bảo vật có thể làm trang nghiêm thế gian vậy. (5) Tối thắng, nghĩa là trong các pháp xuất thế gian, ba ngôi báu này là pháp vượt hơn hết tất cả. (6) Bất biến, không thay đổi, nghĩa là ba ngôi báu này là pháp Vô Lậu (s: anāsrava, p: anāsava, 無漏), không bị Tám Pháp của thế gian làm cho lay động, thay đổi. Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (大乘法苑義林章, Taishō Vol. 45, No. 1861) quyển 6 lại đưa ra 4 nghĩa khác để làm sáng tỏ nguyên do sáng lập Tam Bảo: (1) Tà Tam Bảo (邪三寶) để đối trị ngoại đạo, nghĩa là phản tà quy chánh. (2) Đức Phật là bậc thầy điều ngự, Pháp là giáo pháp của vị thầy đó, Tăng là học trò của thầy đó. Sự chứng đắc của ba ngôi này là vô lượng, chủng loại giống nhau, nên hợp thành một pháp; nhưng vì nhân quả chứng đắc có khác nhau, nên phân thành thầy trò. (3) Người thượng căn muốn chứng quả Bồ Đề của Phật, nên gọi đó là Phật Bảo; người trung căn muốn cầu trí tự nhiên mà liễu đạt pháp nhân duyên, nên gọi đó là Pháp Bảo; người hạ căn nương vào thầy thọ pháp, lý sự không sai khác, nên gọi đó là Tăng Bảo. (4) Đức Phật như vị lương y, Pháp như phương thuốc mầu nhiệm; Tăng giống như người khán bệnh; đối với người bệnh mà nói thì vị lương y, phương thuốc mầu nhiệm và người khán bệnh không thể nào thiếu được. Trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) có đoạn: “Hựu phàm vi lễ bái, tất tu tiên kính Tam Bảo, Tam Bảo thị tối thắng cát tường, lương hựu phước điền, năng tiêu chúng sanh nghiệp cấu (又凡爲禮拜、必須先敬三寶、三寶是最勝吉祥、良祐福田、能消眾生業垢, lại phàm là lễ lạy, tất nên trước kính trọng Tam Bảo, Tam Bảo là điều tốt lành trên hết, là ruộng phước phù hộ tốt, có thể tiêu trừ nghiệp cấu của chúng sanh).” Hay trong Quy Giới Yếu Tập (歸戒要集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1129) quyển 1 cũng có đoạn: “Phù Tam Bảo giả, tánh tướng thường trụ, thể châu pháp giới, tiếp vật ứng cơ, như nhật diệu ư thiên giang, vi thế chu hàng (夫三寶者、性相常住、體周法界、接物應機、如日曜於千江、爲世舟航, phàm ba ngôi báu, tánh tướng thường trụ, thể khắp pháp giới, theo vật ứng cơ, như mặt trời tỏa sáng nơi ngàn sông, làm thuyền bè cho thế gian).”
(s: trayo dhātavaḥ, p: tisso dhātuyo, 三界): Ba Cõi, có nhiều ý nghĩa khác nhau.
(1) Chỉ ba cõi mà chúng sanh đang sống gồm Dục Giới (s: kāma-dhātu, 欲界), Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界) và Vô Sắc Giới (s: ārūpa-dhātu, 無色界). Chúng hữu tình mê vọng lưu chuyển trong vòng sanh tử biến hóa, tùy theo cảnh giới mà chia thành 3 giai cấp khác nhau. Nó còn được gọi là Tam Hữu (三有). Tam Giới là lãnh vức mê khổ của chúng sanh, như biển lớn không có giới hạn, nên được gọi là Khổ Giới (苦界, Cõi Khổ), Khổ Hải (苦海, Biển Khổ). Dục Giới là thế giới cư trú của chúng hữu tình đầy dâm dục, tình dục, sắc dục, tham dục, v.v. Cõi này bao gồm trên từ cõi trời thứ 6 Tha Hóa Tự Tại Thiên (他化自在天), giữa có bốn châu lớn của con người và dưới đến Vô Gián Địa Ngục (無間地獄), v.v. Do vì nam nữ cùng sống chung với nhau, nhiễm các mong muốn, nên gọi là Dục Giới. Cõi Dục Giới có Địa Cư (s: Bhauma, 地居), Hư Không Cư (s: Āntarikṣavāsina, 虛空居), Tứ Thiên Vương Thiên (s: Cāturṁahārājakāyika, 四天王天, gồm Trì Quốc Thiên [s: Dhṛtarāṣṭra, 持國天], Tăng Trưởng Thiên [s: Virūḍhaka, 增長天], Quảng Mục Thiên [s: Virūpākṣa, 廣目天] và Đa Văn Thiên [s: Vaiśrāmana, 多聞天]), Đao Lợi Thiên (s: Trāyastriṁśa, 忉利天), Tu Dạ Ma Thiên (s: Yāma, 須夜摩天), Đâu Suất Thiên (s: Tuṣita, 兜率天), Hóa Lạc Thiên (s: Nirmāṇarati, 化樂天), Tha Hóa Tự Tại Thiên (s: Parmanirmitavaśavartin, 他化自在天). Sắc Giới, sắc ở đây có nghĩa là thị hiện (hiện rõ), là thế giới cư trú của chúng hữu tình đã xa lìa được dâm dục, thực dục và có đầy đủ sắc chất thanh tịnh. Cõi này năm trên Dục Giới, không có dục nhiễm, cũng chẳng có hình nữ; chúng sanh ở đây đều do hóa sanh mà có. Cung điện tại đây cao lớn, do sắc hóa sanh, nên hết thảy đều đặc biệt, khác thường. Do vì cõi này có sắc chất nên được gọi là Sắc Giới. Căn cứ vào Thiền định sâu cạn, thô tế mà cõi này được chia thành 4 cấp khác nhau, từ Sơ Thiền Phạm Thiên (初禪梵天) cho đến A Ca Nị Tra Thiên (阿迦膩吒天), có 28 cõi trời. Cõi này có Sơ Thiền Thiên (初禪天, gồm Phạm Thiên [s: Brahmakaya, 梵天], Phạm Chúng Thiên [s: Brahmapārṣadya, 梵眾天], Phạm Phụ Thiên [s: Brahmapurohita, 梵輔天] và Đại Phạm Thiên [s: Mahābrahmā, 大梵天]), Nhị Thiền Thiên (二禪天, gồm Thiểu Quang Thiên [s: Parittābha, 少光天], Vô Lượng Quang Thiên [s: Apramāṇābha, 無量光天] và Quang Âm Thiên [s: Ābhāsvara, 光音天]), Tam Thiền Thiên (三禪天, gồm Thiểu Tịnh Thiên [s: Parittaśubha, 天], Vô Lượng Tịnh Thiên [s: Apramāṇaśubha, 天] và Biến Tịnh Thiên [s: Śubhakṛtsna, 少淨天]), Tứ Thiền Thiên (四禪天, gồm Vô Vân Thiên [s: Anabhraka, 無雲天], Phước Sanh Thiên [s: Puṇyaprasava, 福生天] và Quảng Quả Thiên [s: Bṛhatphala, 廣果天]) và Tịnh Phạm Địa (淨梵天, gồm Vô Tưởng Thiên [s: Avṛha, 無想天], Vô Phiền Thiên [s: Atapa, 無煩天], Vô Nhiệt Thiên [s: Sudrśa, 無熱天], Thiện Kiến Thiên [s: Sudarśana, 善見天], Sắc Cứu Cánh Thiên [s: Akaniṣṭha, 色究竟天], Hòa Âm Thiên [s: Aghaniṣṭha, 和音天] và Đại Tự Tại Thiên [s: Mahāmaheśvara, 大自在天]). Vô Sắc Giới là thế giới cư trú của chúng hữu tình không có vật chất mà chỉ có 4 tâm là Thọ (受), Tưởng (想), Hành (行) và Thức (識). Cõi này không có vật chất, thân thể, cung điện, quốc độ gì cả; chỉ lấy tâm thức mà trú trong Thiền định sâu xa vi diệu; nên có tên gọi như vậy. Nó nằm trên Sắc Giới, có 4 cõi trời (Không Vô Biên Xứ [s: Akāśānantyāyatana, 空無邊處], Thức Vô Biên Xứ [s: Vijñānānantyāyatana, 識無邊處], Vô Sở Hữu Xứ [s: Ākiñcanyāyatana, 無所有處] và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ [s: Naivasaṁjñānāsaṁjñāyatana, 非想非非想處]), được gọi là Tứ Vô Sắc (四無色), Tứ Không Xứ (四空處). Quả báo, khổ vui, v.v., trong Tam Giới tuy có khác nhau; nhưng cả 3 đều thuộc vào cõi mê lầm, nên chúng sanh trong đó đều phải chịu sự chi phối của quy luật luân hồi sanh tử. Vì vậy, bậc thánh thường xa rời ba cõi này. Trong Phẩm Thí Dụ (譬喩品) của Kinh Pháp Hoa (法華經) có đoạn rằng: “Tam Giới vô an, do như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn, thậm khả bố úy (三界無安、猶如火宅、眾苦充滿、甚可怖畏, Ba Cõi không an, giống như nhà lửa, các khổ đầy ắp, rất đáng sợ hãi)”. Bên cạnh đó, Phẩm Hóa Thành Dụ (化城喩品) của kinh này cũng diễn tả rằng: “Năng ư Tam Giới ngục, miễn xuất chư chúng sanh (能於三界獄、勉出諸眾生, có thể nơi ngục của Ba Cõi, làm cho các chúng sanh ra khỏi)”. Như vậy, kinh này muốn cho mọi người thấy rõ rằng Tam Giới không phải là thế giới an ổn thật sự, nên phải thường cầu mong thoát khỏi thế giới ấy.
(2) Tam Giới chỉ cho ba con đường đối trị của giải thoát, gồm: Đoạn Giới (斷界), Ly Giới (離界) và Diệt Giới (滅界). Đoạn Giới là đoạn trừ Cửu Kết (九結, 9 loại phiền não), trong đó trừ Tham ra, còn lại 8 thứ kia đều đoạn trừ, hoặc đoạn trừ Vô Minh Kết (無明結, sự ràng buộc của vô minh). Ly Giới là đoạn trừ phiền não của Tham, hay đoạn trừ Ái Kết (愛結, sự ràng buộc của ái). Diệt Giới là đoạn diệt Hữu Lậu (有漏) và các pháp Hữu Vi (有爲), v.v.
(3) Chỉ Sắc Giới (色界), Vô Sắc Giới (無色界) và Tận Giới (盡界).
(4) Chỉ Pháp Giới (法界), Tâm Giới (心界) và Chúng Sanh Giới (眾生界).
Trong Phong Thần Diễn Nghĩa (封神演義), hồi thứ 26 có đoạn: “Siêu xuất Tam Giới ngoại, bất tại Ngũ Hành trung (超出三界外、不在五行中, vượt ra ngoài Ba Cõi, chẳng ở trong Năm Hành).” Hay trong Đạt Ma Đại Sư Phá Tướng Luận (達磨大師破相論, CBETA No. 1220) cũng có đoạn rằng: “Tam Giới nghiệp báo, duy tâm sở sanh, bổn nhược vô tâm, ư Tam Giới trung, tức xuất Tam Giới; kỳ Tam Giới giả, tức Tam Độc giả; Tham vi Dục Giới, Sân vi Sắc Giới, Si vi Vô Sắc Giới; cố danh Tam Giới (三界業報、唯心所生、本若無心、於三界中、卽出三界、其三界者、卽三毒也、貪爲欲界、嗔爲色界、癡爲無色界、故名三界, nghiệp báo của Ba Cõi, do tâm sanh ra, nếu vốn không tâm, ở trong Ba Cõi, tức ra Ba Cõi; Ba Cõi ấy tức là Ba Độc; Tham là Cõi Dục, Sân là Cõi Sắc, Si là Cõi Vô Sắc; nên gọi là Ba Cõi).”
(s: trīni-karmāṇi, 三業): ba nghiệp gồm thân, miệng và ý.
(1) Thân nghiệp (s: kāya-karman, p: kāya-kamma, 身業) là việc làm do thân làm ra, có thiện và ác. Như sát sanh, trộm cắp, tà dâm là nghiệp xấu của thân. Còn nếu không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, v.v., là nghiệp tốt của thân.
(2) Khẩu nghiệp (s: vāk-karman, p: vacī-kamma, 口業) là việc làm do miệng làm ra, có thiện có ác khác nhau. Tỷ dụ như nói dối, nói lời ly gián, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt là nghiệp xấu của miệng. Và nếu không nói dối, không nói lời ly gián, không nói lời thô ác, không nói lời thêu dệt là nghiệp tốt của miệng.
(3) Ý nghiệp (s: manas-karman, p: mano-kamma, 意業) là việc làm do ý tạo ra, cũng có thiện và ác. Như tham dục, sân hận, tà kiến là nghiệp không tốt của ý. Và không tham lam, không sân hận, không tà kiến là nghiệp tốt của ý.
Ngoài ra, Tam Nghiệp còn có nghĩa là:
(1) Thiện Nghiệp (善業, hành vi tạo tác mang tính tốt, lương thiện),
(2) Ác Nghiệp (惡業, hành vi tạo tác mang tính xấu, thấp kém) và
(3) Vô Ký Nghiệp (無記業, hành vi tạo tác không thể phân biệt, chẳng thuộc về thiện và ác).
Hay Tam Nghiệp là:
(1) Lậu Nghiệp (漏業, tác nghiệp có phiền não, có thể chiêu cảm quả báo Phần Đoạn Sanh Tử, thuộc về hành vi tạo tác của phàm phu),
(2) Vô Lậu Nghiệp (無漏業, tác nghiệp không có phiền não, có thể chiêu cảm quả báo Phương Tiện Hữu Dư Độ, thuộc về tác nghiệp của hàng Nhị Thừa Thanh Văn và Duyên Giác) và
(3) Phi Lậu Phi Vô Lậu Nghiệp (非漏非無漏業, tác nghiệp không thuộc về Hữu Lậu và vô lậu, có thể chiêu cảm quả báo Thật Báo Độ, là tác nghiệp của Bồ Tát).
Như trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (受菩薩戒儀, CBETA No. 1085) có giải thích rằng: “Giới chi nhất tự thị danh, Phạn vân Thi La, diệc vân Tỳ Ni Ba La Đề Mộc Xoa đẳng, thử vân thanh lương, diệt Tam Nghiệp chi quá khiên, đắc giải thoát dã (戒之一字是名、梵云尸羅、亦云毗尼波羅提木叉等、此云清涼、滅三業之過愆、得解脫也, một chữ Giới là tên gọi, tiếng Phạn là Thi La, còn gọi là Tỳ Ni Ba La Đề Mộc Xoa, v.v.; Tàu gọi là trong mát, diệt các tội lỗi của Ba Nghiệp, được giải thoát).” Hay trong (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) có câu: “Kim trì giới chi yếu, tiên tu Tam Nghiệp thanh tịnh, tắc tâm tự tịnh (今持戒之要、先須三業清淨、則心自淨, nay điều côt yếu của việc giữ giới là trước hết phải Ba Nghiệp trong sạch, tức tâm tự trong sạch).”
(十纒): 10 loại phiền não trói buộc chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi, theo các phiền não căn bản như tham, sân, si, v.v., mà sanh khởi, tạo ra các loại ác hạnh. Mười loại này gồm có:
(1) Vô Tàm (無慚), đối với những người có công đức cũng như có đức độ mà không cung kính, tôn trọng, lại còn tránh xa mà không tự biết xấu hổ;
(2) Vô Quý (無愧), không thấy hổ thẹn đối với tội do người khác thấy được;
(3) Tật (嫉), tâm không vui vẻ, hoan hỷ đối với sự thành công của người khác;
(4) Xan (慳), keo kiệt, bỏn xẻn đối với việc bố thí tài vật thế gian hoặc pháp tài của xuất thế gian;
(5) Hối (悔), hối hận đối với các việc làm sai lầm, khiến cho tâm bất an;
(6) Miên (眠), khiến cho tâm hôn trầm, trì trệ, không có năng lực giác tỉnh;
(7) Trạo Cử (掉舉), khiến cho tâm không vắng lặng, không thể nào thành tựu các Thiền quán;
(8) Hôn Trầm (昏沉), thần thức si độn, thân tâm không có năng lực an trú đối với các thiện pháp;
(9) Phẫn (忿), gặp lúc bị làm sai ý mình, tất phát sanh giận dữ nên mất đi chánh niệm;
(10) Phú (覆), tức che giấu tội lỗi, sai lầm của bản thân. Trong Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Sám Pháp (消災延壽藥師懺法) quyển hạ có câu: “Đệ tử mỗ giáp, tự vi chơn tánh, uổng nhập mê lưu, tùy sanh tử dĩ phiêu trầm, trục sắc thanh nhi tham nhiễm, Thập Triền Thập Sử, tích thành Hữu Lậu chi nhân, Lục Căn Lục Trần, vọng tác vô biên chi tội (弟子某甲、自違眞性、枉入迷流、隨生死以飄沉、逐色聲而貪染、十纏十使、積成有漏之因、六根六塵、妄作無邊之罪, Đệ tử …, tự sai chơn tánh, lầm nhập dòng mê, theo sanh tử mà trôi giạt, lấy sắc thanh mà tham nhiễm, Mười Triền Mười Sử, tích thành Hữu Lậu nhân sâu, Sáu Căn Sáu Trần, sai tạo vô biên tội nghiệt).”
(s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦): Đế (s: satya, p: sacca, 諦) ở đây nghĩa là chân thật, bất hư, chân lý. Tứ Đế chỉ cho 4 loại chân lý đúng dắn, không sai lầm, không hư dối, gồm: Khổ (苦), Tập (集), Diệt (滅) và Đạo (道); còn gọi là Tứ Chân Đế (四眞諦); 4 chân lý này do bậc thánh thấy được nên gọi là Tứ Thánh Đế (四聖諦), Tứ Diệu Đế (四妙諦). Đại thể, Tứ Đế là Phật Giáo dùng để giải thích hiện tượng vũ trụ theo quy nạp của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), là đại cương giáo nghĩa của Phật Giáo Nguyên Thủy, là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Theo thứ tự, 4 chân lý này là Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Thánh Đế (苦集聖諦), Khổ Diệt Thánh Đế (苦滅聖諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Đế (苦習諦), Khổ Diệt Đế (苦滅諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hay Khổ Đế (苦諦), Khổ Tập Đế (苦集諦), Khổ Tận Đế (苦盡諦), Khổ Xuất Yếu Đế (苦出要諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Tập Thánh Đế (集聖諦), Chơn Thánh Đế (眞聖諦), Đạo Thánh Đế (道聖諦). Trong đó, Khổ và Tập biểu thị quả và nhân của thế giới mê lầm; Diệt và Đạo biểu thị quả và nhân của thế giới chứng ngộ; nghĩa là quả của thế gian Hữu Lậu là Khổ Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Diệt Đế; nhân của thế gian Hữu Lậu là Tập Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Đạo Đế. Theo Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 7, Phân Biệt Thánh Đế Kinh (分別聖諦經), A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 77, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 7, v.v., cụ thể Tứ Đế là: (1) Khổ Đế (s: duḥkha-satya, p: dukkha-sacca, 苦諦), còn gọi là Khổ Thánh Đế (s: duḥkhārya-satya, 苦聖諦); khổ tức chỉ trạng thái bức bách thân tâm khổ não; mọi sự vật trên thế gian, dù hữu tình hay chẳng phải hữu tình, đều phải chịu khổ; hết thảy thế gian bản chất là khổ. Khổ Đế tức là chân lý về cái khổ thật sự liên quan đến vấn đề sanh tử. (2) Tập Đế (s: samudaya-satya, p: samudaya-sacca, 集諦), còn gọi là Tập Thánh Đế (s: samudayārya-satya, 集聖諦); tập đây nghĩa là sự thật về tất cả phiền não hoặc nghiệp thật sự có thể chiêu tập quả của khổ sanh tử trong Ba Cõi. Tập Đế là chân lý liên quan đến sự sanh khởi cũng như căn nguyên các nỗi khổ của con người trên cõi đời này. (3) Diệt Đế (s: nirodha-satya, p: nirodha-sacca, 滅諦), còn gọi là Diệt Thánh Đế (s: nirodhārya-satya, 滅聖諦); diệt ở đây nghĩa là tịch diệt, vắng lặng, thật sự đoạn trừ căn bản của khổ là ái dục thì sẽ được diệt khổ, có thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Diệt Đế là chân lý liên quan đến sự diệt tận Khổ và Tập. (4) Đạo Đế (s: mārga-satya, p: magga-sacca, 道諦), còn gọi là Đạo Thánh Đế (s: mārgārya-satya, 道聖諦); đạo nghĩa là có thể thông suốt, tức là con đường diệt khổ, như Chánh Kiến (正見), Chánh Tư Duy (正思惟), v.v., của Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); nếu nương vào đây mà tu hành, tức có thể siêu thoát hai sự thật Khổ và Tập, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vắng lặng. Đạo Đế là chân lý liên quan đến Bát Chánh Đạo ấy. Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Tứ Đế này cho 5 vị Tỳ Kheo, được xem như là lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Đây là giáo nghĩa căn bản nhất trong các giáo lý Phật Giáo, là phương pháp duy nhất dể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Về sau, Tứ Đế được xem như là pháp của Thanh Văn; ngoại trừ Phật Giáo Nguyên Thủy thuyết về giáo lý này, trong các kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa cũng có đề cập đến giáo thuyết này, tỷ dụ như Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘獅子吼一乘大方便方廣經, Taishō Vol. 12, No. 353), Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 12, 13, v.v., không những có giải thích theo quan điểm Đại Thừa mà còn phát huy áo nghĩa của Tứ Đế nữa. Về tự tánh của Tứ Đế, các bộ phái đều có những dị thuyết. Căn cứ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 77, các luận sư của A Tỳ Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨) lấy Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) là Khổ Đế, nhân của Hữu Lậu là Tập Đế, pháp Trạch Diệt (s: pratisaṃkhyā-nirodha, p: patisaṅkhā-nirodha, 擇滅) là Diệt Đế, pháp Học, Vô Học là Đạo Đế. Về thứ tự hiện quán của Tứ Đế, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 22, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 78 cho biết rằng trước quán Khổ Đế, kế đến quán Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Căn cứ vào Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 7 Trung, Đại Thừa Phật Giáo lấy nội dung của Tứ Đế diễn thành 8 loại, gọi là Bát Đế (八諦, Tám Đế); gồm Hành Khổ Đế (行苦諦), Hoại Khổ Đế (壞苦諦), Khổ Khổ Đế (苦苦諦), Lưu Chuyển Đế (流轉諦), Tạp Nhiễm Đế (雜染諦, tương đương với Khổ Đế và Tập Đế), Lưu Tức Đế (流息諦, tương đương với Diệt Đế), Thanh Tịnh Đế (清淨諦, tương đương với Diệt Đế và Đạo Đế), Chánh Phương Tiện Đế (正方便諦, tương đương với Đạo Đế). Bên cạnh đó, Đại Sư Trí Khải của Thiên Thai Tông căn cứ vào thuyết của Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh lại lập ra 4 loại Tứ Đế có sâu cạn bất đồng, tương đương với 4 giáo tướng Tạng, Thông, Biệt, Viên; gồm: (1) Sanh Diệt Tứ Đế (生滅四諦), do Tạng Giáo (藏敎) thuyết ra, tùy theo việc sanh diệt Hữu Vi mà quán nhân quả của Tứ Đế là thật có sanh, diệt. (2) Vô Sanh Tứ Đế (無生四諦), hay Vô Sanh Diệt Tứ Đế (無生滅四諦), do Thông Giáo (通敎) thuyết ra, tùy theo nhân duyên các pháp tức là Không, Vô Sanh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ Đế, đều là không vô vốn chẳng có sanh diệt. (3) Vô Lượng Tứ Đế (無量四諦), do Biệt Giáo (別敎) thuyết ra, tùy theo trong cõi ngoài cõi với vô số sai biệt, vô số nhân, mà Tứ Đế cũng có vô lượng các tướng. (4) Vô Tác Tứ Đế (無作四諦), do Viên Giáo (圓敎) thuyết ra, tùy theo đương thể của mê ngộ tức là thật tướng, mà quán sự đối lập mâu thuẩn giữa mê với ngộ tức chẳng phải mâu thuẩn, và tất cả đều là thật tướng. Ngoài ra, Pháp Tướng Tông lấy Diệt Đế lập ra Ba Diệt Đế, gồm: Hữu Tự Tánh Diệt (有自性滅), Nhị Thủ Diệt (二取滅) và Bản Tánh Diệt (本性滅); đối với Đạo Đế thì lập ra Ba Đạo Đế, gồm: Biến Tri Đạo (徧知道), Vĩnh Đoạn Đạo (永斷道) và Tác Chứng Đạo (作證道). Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) quyển 3 có đoạn rằng: “Hữu Khổ khả tri, hữu Tập khả đoạn, hữu Diệt khả chứng, hữu Đạo khả tu, mê tắc Khổ Tập diệt nhi chân đạo diệt, ngộ tắc Khổ Tập diệt nhi chánh đạo sanh, hữu khả sanh diệt, cố vân Sanh Diệt Tứ Đế (有苦可知、有集可斷、有滅可證、有道可修、迷則苦集生而眞道滅、悟則苦集滅而正道生、有可生滅、故云生滅四諦, có Khổ biết được, có Tập đoạn được, có Diệt chứng được, có Đạo tu được, mê thì Khổ Tập sanh mà chân đạo diệt, ngộ thì Khổ Tập diệt mà chánh đạo sanh, có khả năng sanh diệt như vậy, nên gọi là Sanh Diệt Tứ Đế).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 9 cũng có đoạn: “Niệm tử tức ngộ vô thường Tứ Đế, nhược Tam Giới bệnh tận tức đắc chứng đạo (念死卽悟無常四諦、若三界病盡卽得聖道, nghĩ nhớ bệnh là ngộ vô thường Tứ Đế, nếu Ba Cõi bệnh hết tức được chứng đạo).”
(圓寂): ý dịch của Phạn ngữ parinirvāṇa (s.); cựu dịch là diệt độ (滅度), nhập diệt (入滅); còn gọi là quy tịch (歸寂), thị tịch (示寂), nhập tịch (入寂); đồng nghĩa với Niết Bàn (涅槃), thiên hóa (遷化), thuận thế (順世), quy chơn (歸眞); nghĩa là tròn đầy các đức, diệt hết các điều ác. Sự qua đời của đức Phật nghĩ là thâu hóa dụng của cõi mê mà nhập vào cảnh giới giác ngộ; xả đi cảnh tạp nhiễm của Hữu Lậu mà nhập vào cảnh giới Niết Bàn vắng lặng Vô Lậu; nên gọi là viên tịch. Từ này cũng có nghĩa xa lìa cái khổ của sanh tử, đạt đến sự an lạc tịnh diệu. Về sau, chư vị tăng ni qua đời cũng gọi là viên tịch. Trong Bát Nhã Tâm Kinh Giải Nghĩa (般若心經解義, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 26, No. 570) định nghĩa rằng: “Niết Bàn, thử vân viên tịch, đức vô bất bị xưng viên, chướng vô bất tận xưng tịch (涅槃、此云圓寂、德無不僃稱圓、障無不盡稱寂, Niết Bàn, ở đây [Trung Hoa] gọi là viên tịch, đức không nơi nào mà không đầy đủ gọi là viên, chướng không chỗ nào mà không hết gọi là tịch).” Như trong Phật Pháp Kim Thang Biên (佛法金湯編, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628) quyển 8, phần Lý Bạch (李白), có đoạn: “Bản tâm nhược hư không, thanh tịnh vô nhất vật, phần đãng dâm nỗ si, viên chiếu liễu kiến Phật (本心若虛空、清淨無一物、焚蕩淫怒癡、圓照了見佛, tâm gốc như hư không, trong sạch không một vật, đốt dâm đãng giận si, chiếu rõ rồi thấy Phật).” Hay trong Thiền Lâm Bị Dụng Thanh Quy (禪林僃用清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1250) quyển 9, phần Phúng Kinh (諷經), cũng có đoạn: “Thượng lai phúng kinh công đức, phụng vị tân viên tịch mỗ giáp Thượng Tọa (上來諷經功德、奉爲新圓寂某甲上座, khởi đầu tụng kinh công đức, kính vì Thượng Tọa … mới viên tịch).” Hoặc trong Thiền Đăng Thế Phổ (禪燈世譜, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1601) quyển 1, phần Thanh Nguyên Hành Tư (青原行思), lại có đoạn rằng: “Ấu tuế xuất gia, cư Thanh Nguyên Sơn Tĩnh Cư Tự; Huyền Tông Khai Nguyên nhị thập bát niên thập nhất nguyệt thập tam nhật viên tịch, thụy Hoằng Tế, tháp viết Quy Tịch (幼歲出家、居青原山靜居寺、玄宗開元二十八年十一月十三日圓寂、諡弘濟、塔曰歸眞, sư tuổi nhỏ xuất gia, sống ở Tĩnh Cư Tự thuộc Thanh Nguyên Sơn; vào ngày 13 tháng 11 năm thứ 28 [740] niên hiệu Khai Nguyên đời vua Huyền Tông [tại vị 712-756], sư viên tịch, thụy hiệu là Hoằng Tế, tháp tên là Quy Tịch).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập