Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. (You may delay, but time will not.)Benjamin Franklin
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hữu Dư Y Niết Bàn »»
(s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃): âm dịch là Nê Hoàn (泥洹), Niết Bàn Na (涅槃那), Niết Lệ Bàn Na (涅隷槃那); ý dịch là Diệt (滅), Diệt Độ (滅度), Tịch (寂), Tịch Diệt (寂滅). Theo nguyên ngữ tiếng Sanskrit nirvāṇa, nó có nghĩa là thổi tiêu đi, cho nên nó nói lên trạng thái thổi tiêu tan lửa phiền não của Ba Độc tham sân si. Về định nghĩa của từ này, trong các Kinh A Hàm (p: Āgama, 阿含) thì có câu định hình là diệt tận tham dục, sân nhuế và ngu si. Tỷ dụ như trong Kinh Tạp A Hàm 19 (雜阿含經) có đoạn rằng: "Vân hà vi Niết Bàn ? Xá Lợi Phất ngôn: Niết Bàn giả, tham dục vĩnh tận, sân nhuế vĩnh tận, ngu si vĩnh tận, nhất thiết chư phiền não vĩnh tận, thị danh Niết Bàn (云何爲涅槃、舍利弗言、涅槃者、 貪欲永盡、瞋恚永盡、愚癡永盡、一切諸煩惱永盡、是名涅槃, Thế nào gọi là Niết Bàn ? Xá Lợi Phất bảo rằng: Niết Bàn là hết sạch tham dục, hết sạch sân nhuế, hết sạch ngu si. Đó gọi là Niết Bàn)". Đến thời kỳ bộ phái Phật Giáo thì Niết Bàn được chia thành 2 loại là Hữu Dư Niết Bàn (有餘涅槃, hay Hữu Dư Y Niết Bàn) và Vô Dư Niết Bàn (無餘涅槃, hay Vô Dư Y Niết Bàn). Hữu Dư Niết Bàn là trạng thái mà người giác ngộ đã diệt tận phiền não nhưng nhục thân vẫn còn sống. Vô Dư Niết Bàn là trạng thái mà người giác ngộ đã diệt tận luôn nhục thân của mình sau khi chết. Từ quan niệm đó, sự qua đời của đức Phật được gọi là Niết Bàn hay nhập Niết Bàn, viên tịch, v.v.; cho nên kinh điển mà đức Phật thuyết trước khi nhập Niết Bàn thì được gọi là Niết Bàn Kinh (涅槃經) hay Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經). Trong Thành Duy Thức Luận 10 (成唯識論) lại chia Niết Bàn thành 4 loại là Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn (自性清淨涅槃), Hữu Dư Y Niết Bàn (有餘依涅 槃), Vô Dư Y Niết Bàn (無餘依涅槃) và Vô Trú Xứ Niết Bàn (無住處涅槃). Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn là chỉ về trạng thái mà tâm tánh của hết thảy chúng sanh xưa nay vốn thanh tịnh. Vô Trú Xứ Niết Bàn là cõi Niết Bàn lý tưởng của Đại Thừa, chỉ về trạng thái của chư Phật cũng như Bồ Tát chẳng trú vào sanh tử, cũng chẳng nương vào Niết Bàn, mà cho rằng sanh tử chính là Niết Bàn, với từ bi và trí tuệ đầy đủ, sống tùy duyên tự tại, nhậm vận vô tác. Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士, 1230-1291) của Việt Nam có câu: “Niết Bàn tâm tịch tịch, sanh tử hải trùng trùng, bất sinh hoàn bất diệt, vô thỉ diệc vô chung (涅槃心寂寂、生死海重重、不生還不滅、無始亦無終, Niết Bàn tâm vắng lặng, sanh tử biển trùng trùng, chẳng sanh lại chẳng diệt, không trước lại không sau).”
(s: anupadhiśeṣa-nirvāṇa, p: anupādisesa-nibbāna, 無余依涅槃): hay còn gọi là Vô Dư Niết Bàn, đối lập với Hữu Dư Y Niết Bàn, nghĩa là chứng đạt cảnh giới Niết Bàn mà thân thể do Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) hợp thành này cũng tận diệt, không còn chỗ sở y nào nữa. Nó cũng là một trong bốn loại Niết Bàn, gồm Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn, Hữu Dư Niết Bàn, Vô Dư Niết Bàn và Vô Trú Xứ Niết Bàn. Theo thuyết của Duy Thức thì khi đoạn tận phiền não chướng, thức thứ 8 sẽ chuyển thành Đại Viên Cảnh Trí, diệt hết tất cả lậu hoặc thì gọi là Vô Dư Y Niết Bàn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập