Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cho dù người ta có tin vào tôn giáo hay không, có tin vào sự tái sinh hay không, thì ai ai cũng đều phải trân trọng lòng tốt và tâm từ bi. (Whether one believes in a religion or not, and whether one believes in rebirth or not, there isn't anyone who doesn't appreciate kindness and compassion.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Huệ Tín »»
(s: Prajñāpāramitā-hṛdaya, t: çes-rah sñiṅ-po bshugs-so, c: Pan-jo-po-lo-mi-to-hsin-ching, j: Hannyaharamittashinkyō, 般若波羅蜜多心經): nói cho đủ là Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (摩訶般若波羅蜜多心經), còn gọi là Bát Nhã Đa Tâm Kinh (般若多心經), Bát Nhã Tâm Kinh (般若心經), Tâm Kinh (心經), 1 quyển, hiện còn, Taishō 8, 848, No. 251, Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch vào năm 649 hay 648 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 23 hay 22) nhà Đường. Có 6 dịch bản khác của kinh này:
(1) Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đại Minh Chú Kinh (摩訶般若波羅蜜大明呪經), do Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413) dịch.
(2) Bát Nhã Ba La Mật Đa Na Đề Kinh (般若波羅蜜多那提經), do Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支, 562-727) dịch.
(3) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Bát Nhã (s: Prajñā, 般若, 734-?), Lợi Ngôn (利言, khoảng thế kỷ thứ 8) dịch.
(4) Phổ Biến Trí Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (普遍智藏般若波羅蜜多心經), do Pháp Nguyệt (s: Dharmacandra, 法月, 653-743) dịch.
(5) Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), do Trí Huệ Luân (智慧輪) dịch.
(6) Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (聖佛母般若波羅蜜多心經), do Thí Hộ (s: Dānapāla, 施護, khoảng thế kỷ thứ 10) dịch.
Nếu so sánh các bản trên, bản dịch của Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập được lưu truyền rộng rãi nhất. Phạn bản của kinh này hiện còn ở Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) của Nhật Bản; năm 1884 F. Max Müller và Bunyū Nanjō (文雄南條) đã cùng hiệu đính, xuất bản; đến năm 1894 nó được dịch sang Anh ngữ. Ngoài ra, vào năm 1864, học giả người Anh là Beal Samuel cũng đã dịch sang Anh ngữ bản dịch của Huyền Trang. Nếu so bản tiếng Sanskrit và bản Hán dịch của Huyền Trang, chúng có nội dung tương đồng. Còn bản được phát hiện ở thạch động Đôn Hoàng là tư liệu rất quý trọng đối với giới học thuật. Về phần chú sớ của kinh này cũng có rất nhiều bản, trong đó quan trọng nhất là Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh U Tán (般若波羅蜜多心經幽贊) của Khuy Cơ (窺基, 632-682), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Tán (般若波羅蜜多心經贊) của Viên Trắc (圓測, 613-696), Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Lược Sớ (般若波羅蜜多心經略疏) của Pháp Tạng (法藏, 643-712), và Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh Sớ (般若波羅蜜多心經疏) của Huệ Tịnh (慧淨, 578-?), v.v.
(覺信, Kakushin, 1224-1283): vị Ni sống vào khoảng giữa thời đại Liêm Thương, người giữ chức Lưu Thủ Miếu Đường đầu tiên; húy là Giác Tín (覺信); tục danh là Vương Ngự Tiền (王御前), thông xưng là Binh Vệ Đốc Cục (兵衛督局); xuất thân vùng Thường Lục (常陸, Hitachi, thuộc Ibaraki-ken [茨城縣]); con gái út của Thân Loan (親鸞, Shinran), mẹ là Ni Huệ Tín (惠信, Eshin). Bà cùng với Thân Loan lên kinh đô, rồi kết hôn với nhà công khanh Cửu Ngã Thông Quang (久我通光, Koga Michiteru); nhưng sau đó thì đến làm dâu nhà Nhật Dã Quảng Cương (日野廣綱, Hino Hirotsuna), và sau khi Nhật Dã qua đời thì bà lại tái hôn với Tiểu Dã Cung Thiền Niệm (小野宮禪念, Onomiya Zennen). Vào năm 1272, bà kiến lập nên ngôi miếu đường của Thân Loan nơi vùng đất Đại Cốc (大谷, Ōtani) thuộc Đông Sơn (東山, Higashiyama), vùng đất sở hữu của Thiền Niệm. Về sau, bà dâng cúng khu đất này cho anh em môn đệ vùng Quan Đông và được bổ nhiệm làm chức Lưu Thủ vùng này.
(親鸞, Shinran, 1173-1262): vị tăng sống vào đầu thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), vị tổ sư khai sáng ra Tịnh Độ Chơn Tông Nhật Bản, con đầu của Hoàng Thái Hậu Cung Đại Tấn Nhật Dã Hữu Phạm (宮大進日野有範), thông xưng là Xước Không (綽空), Thiện Tín (善信). Ban đầu ông đầu sư với Từ Viên (慈圓), sau trở thành đệ tử của Pháp Nhiên (法然, Hōnen). Vào năm 1207 (năm đầu niên hiệu Thừa Nguyên [承元]), do vì pháp môn niệm Phật bị đàn áp nên ông bị lưu đày đến địa phương Việt Hậu (越後, Echigo), và trong khoảng thời gian này ông tự xưng là kẻ ngu ngốc và sống cuộc đời phi tăng phi tục. Cũng chính trong giai đoạn này, ông đã cưới vị Ni Huệ Tín (慧信) làm vợ. Đến năm 1211 (năm đầu niên hiệu Kiến Lịch [建曆]), ông được xá tội, và năm sau ông trở về kinh đô. Nơi đây ông gặp Thường Lục Quốc Đạo Điền Hương (常陸國稻田郷) ở vùng Quan Đông (關東, Kantō), lấy giáo nghĩa Tín Tâm Vi Bổn (信心爲本, tín tâm làm gốc) và tiến hành truyền đạo bố giáo. Các tác phẩm của ông để lại cho hậu thế có Giáo Hành Tín Chứng (敎行信証), Duy Tín Sao Văn Ý (唯信抄文意), Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao (淨土文類聚抄), Ngu Ngốc Sao (愚禿抄), v.v. Ôngđược ban cho thụy hiệu là Kiến Chơn Đại Sư (見眞大師).
(禪林寺, Zenrin-ji): ngôi tự viện của Tào Động Tông; hiện tọa lạc tại Ichinomiya-shi (一宮市), Aichi-ken (愛知縣). Vào năm 970 (Thiên Lộc [天祿] nguyên niên), để hồi hướng công đức cầu nguyện siêu độ cho Đằng Nguyên Thật Lại (藤原實賴, Fujiwara-no-Saneyori), quan Chánh Nhất Vị của Tiểu Dã Cung (小野宮), Vĩ Trương (尾張, Owari), người ta đã cho tạc tượng Dược Sư Như Lai và kiến lập một ngôi chùa, lấy tên là Tiểu Dã Viện Cực Lạc Tự (小野院極樂寺). Đương thời chùa này thuộc về Thiên Thai Tông; người khai cơ là Hòa Thượng Hoa Quốc (花國). Vào năm 1019 (Khoan Nhân [寛仁] 3), nhà công khanh Đằng Nguyên Tư Bình (藤原資平, Fujiwara-no-Sukehira) mô phong theo Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), xây dựng ngay trước cổng chùa đền thờ Nhật Cát Thần Xã (日吉神社, Hiyoshi Jinja) để trấn hộ. Đến năm 1525 (Đại Vĩnh [大永] 5), Thiền Sư Tuyên Tẩu Đàm Châu (宣叟曇周) tái hưng chùa, chuyển sang Tào Động Tông và giữ mãi cho đến hôm nay. Tượng thờ chính của chùa là Dược Sư Như Lai, được an trí tại Dược Sư Đường, tương truyền do Tăng Đô Huệ Tín (惠信) tạc nên, là bảo vật vô giá của chùa.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập