Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Bằng bạo lực, bạn có thể giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời bạn đang gieo các hạt giống bạo lực khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Hồng trần »»
(s: pattra, p: patta, 貝葉): Lá Bối, âm dịch là Bối Đa La (貝多羅), gọi tắt là Bối Diệp, Bối Đa (貝多), là lá của loại cây Đa La (多羅, Corypha umbraculifera). Lá của nó dài và rộng, khắc chữ lên lá bằng bút sắt thì rất thích hợp. Trước khi phát minh ra giấy, dưới thời cổ đại Ấn Độ, người ta dùng loại lá cây này thay thế giấy để viết các văn thư, kinh điển và bảo tồn có thể kéo dài đến cả trăm năm. Từ đó, Bối Diệp chỉ cho quyển kinh. Kinh điển được viết trên Lá Bối xuất hiện đầu tiên tại Ấn Độ, sau khi Phật Giáo được truyền vào Trung Quốc, các thư tịch này cũng được lưu truyền. Hiện tại, ở các tự viện thuộc tỉnh Vân Nam cũng như Tây Tạng vẫn còn bảo trì một số lượng rất lớn loại kinh văn Lá Bối này. Như trong bài Sơn Cư (山居) của Tử Bá Lão Nhân Tập (紫柏老人集, CBETA No. 1452) quyển 26 có đoạn: “Bạch nhật lai tham phục hổ Thiền, nạp y thùy cọng nhiễm hương yên, phong trần hữu lộ thông tâm địa, thủy nguyệt vô nhân vấn tánh thiên, không tưởng huyền am phiên bối diệp, diêu tri lôi vũ hộ kim điền, lãnh lãnh tùng hạ thính hàn lãng, vạn kiếp tình căn nhất sái nhiên (白日來參伏虎禪、衲衣誰共染香煙、風塵有路通心地、水月無人問性天、空想玄菴翻貝葉、遙知雷雨護金田、冷冷松下聽寒浪、萬劫情根一洒然, cọp quỳ ban ngày tham vấn Thiền, rách y ai nhuộm khói hương thêm, phong trần có nẻo thông tâm địa, trăng nước không người hỏi tánh thiên, không tưởng am huyền phiên kinh điển, xa hay mưa sấm giúp ruộng vàng, buốt giá cội tùng nghe sóng lạnh, muôn kiếp tình căn rửa sạch liền).” Hay như trong Tây Nham Liễu Huệ Thiền Sư Ngữ Lục (西巖了慧禪師語錄, CBETA No. 1391) cũng có câu: “Hồ tăng phiên bối diệp, Vương Lão tước sanh khương (胡僧翻貝葉、王老嚼生薑, Rợ tăng dịch kinh điển, Vương Lão nhấm gừng non).”
(慧眼): có ba nghĩa khác nhau. (1) Là thuật ngữ Phật Giáo, chỉ cho một trong Ngũ Nhãn (s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼), tức là con mắt trí tuệ của Nhị Thừa; cũng chỉ chung cho trí tuệ có thể chiếu thấy rõ thật tướng của các pháp. Như trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh (維摩詰所說經, Taishō Vol. 14, No. 475), quyển Trung, Phẩm Nhập Bất Nhị Pháp Môn (入不二法門品) có giải thích về Huệ Nhãn rằng: “Thật kiến giả thượng bất kiến thật, hà huống phi thật, sở dĩ giả hà ? Phi nhục nhãn sở kiến, Huệ Nhãn nãi năng kiến, nhi thử Huệ Nhãn, vô kiến vô bất kiến, thị vi nhập Bất Nhị pháp môn (實見者尚不見實、何況非實、所以者何、非肉眼所見、慧眼乃能見、而此慧眼、無見無不見、是爲入不二法門, cái thấy thật còn không thấy thật thay, huống gì chẳng phải thật, vì cớ sao vậy ? Chẳng phải mắt thịt thấy được, mà Huệ Nhãn [con mắt trí tuệ] mới có thể thấy, mà Huệ Nhãn này, không thấy và không phải không thấy, đó là đi vào pháp môn Không Hai).” Hay trong bài thơ Tặng Am Trung Lão Tăng (贈庵中老僧) của Đường Thuận Chi (唐順之, 1507-1560) nhà Minh có câu: “Nghiệp tịnh Lục Căn thành Huệ Nhãn, thân vô nhất vật ký mao am (業淨六根成慧眼、身無一物寄茅庵, nghiệp sạch Sáu Căn thành Huệ Nhãn, thân không một vật gởi am tranh).” Trong Viên Giác Kinh Giáp Tụng Tập Giải Giảng Nghĩa (圓覺經夾頌集解講義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 10, No. 253) còn cho biết rằng: “Thâm ngộ luân hồi tức Huệ Nhãn, phân biệt tà chánh tức Pháp Nhãn; nhiên Huệ Nhãn chứng chơn, Pháp Nhãn đạt sự; hựu Huệ Nhãn tức Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức Hậu Đắc Trí (深悟輪迴卽慧眼、分別邪正卽法眼、然慧眼證眞、法眼達事、又慧眼卽根本智、法眼卽後得智, biết sâu luân hồi tức là Huệ Nhãn, phân biệt đúng sai tức là Pháp Nhãn; tuy nhiên Huệ Nhãn thì chứng chơn, Pháp Nhãn thì đạt về sự; lại nữa, Huệ Nhãn tức là Căn Bản Trí, Pháp Nhãn tức là Hậu Đắc Trí).” (2) Nhãn lực nhạy bén, tinh anh. Như trong tập Âu Bắc Thi Thoại (甌北詩話), bài Ngô Mai Thôn Thi (吳梅村詩) của Triệu Dực (趙翼, 1727-1814) nhà Thanh có câu: “Thử thi nhân huệ nhãn, thiện ư thủ đề xứ (此詩人慧眼、善於取題處, con mắt nhạy bén của nhà thơ này, khéo ở chỗ nắm bắt đề tài).” Hay trong tập Dạ Thu Vũ Đăng Lục (夜雨秋燈錄), Truyện A Hàn (阿韓傳) của tiểu thuyết gia Tuyên Đỉnh (宣鼎, 1832-1880) nhà Thanh lại có câu: “Nhi Hàn năng ư phong trần trung độc cụ tuệ nhãn, nữ hiệp dã (而韓能於風塵中獨具慧眼、女俠也, mà trong phong trần, riêng một mình A Hàn có thể có đủ con mắt tinh anh, đúng là nữ hiệp vậy).” (3) Chỉ cho tròng mắt đẹp. Như trong tập đề vịnh Hồng Vi Cảm Cựu Ký (紅薇感舊記) do Phó Truân Cấn (傅屯艮, 1883-1930, tự Văn Lương [文渠]) sáng tác, có câu: “Năng tương huệ nhãn khán tài tử, khảng khái bi ca úy tịch liêu (能將慧眼看才子、慷慨悲歌慰寂寥, thường lấy mắt đẹp nhìn tài tử, hăng hái buồn ca sợ tịch liêu).”
(倐忽): trong chớp nhoáng, trong thoáng chốt, chỉ thời gian biến chuyển nhanh đến nỗi không thể lường được. Như trong Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐, 771-853) có đoạn: “Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô, ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu (譬如春霜曉露、倐忽卽無、岸樹、井藤、豈能長久, ví như sương mùa xuân, móc buổi sáng, cây bên bờ, dây leo ở giếng, làm sao bền lâu ?).” Hay như trong Khổng Triều Bá Ca (孔廟柏歌) của Hồ Kỳ Nghị (胡其毅, ?-?) nhà Minh có câu: “Lễ nhạc sơ truyền tam bách tải, phong trần thúc hốt câu thiên cải (禮樂初傳三百載、風塵倐忽俱遷改, lễ nhạc mới truyền ba trăm năm, gió bụi thoáng chốt đều biến đổi).” Câu “lão niên thúc hốt (老年倐忽)” có nghĩa là trong thoáng chốc tuổi già lại đến.
(續開古尊宿語要, Zokukaikosonshukugoyō): 6 quyển, do Hối Thất Sư Minh (晦室師明) biên soạn, san hành vào năm thứ 2 (1238) niên hiệu Hỷ Hy (喜熙). Tiếp theo việc san hành bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (古尊宿語要) do Trách Tạng Chủ (賾藏主) ở Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến) thâu tập các Ngữ Lục của 20 vị Thiền sư dưới thời nhà Tống, tác phẩm này thâu lục 80 Ngữ Lục của những Thiền kiệt đương thời. Hiện có truyền bản của Bản Ngũ Sơn, tất cả được lưu hành kết hợp với Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu. Nội dung của nó gồm Tập I có Lâm Tế (臨濟), Phần Dương Chiêu (汾陽昭), Lang Da Giác (瑯瑘覺), Từ Minh Viên (慈明圓), Thúy Nham Chơn (翠巖眞), Hoàng Long Nam (黃龍南), Tử Tâm Tân (死心新), Hối Đường Tâm (晦堂心), Lặc Đàm Anh (泐潭英), Đâu Suất Duyệt (兜率悅), Thảo Đường Thanh (草堂清), Linh Nguyên Thanh (靈源清), Trạm Đường Chuẩn (湛堂準), Trường Linh Trác (長靈卓); Tập II có Pháp Nhãn Ích (法眼益), Vân Môn Yển (雲門偃), Pháp Xương Ngộ (法昌遇), Tuyết Đậu Hiển (雪竇顯), Thiên Y Hoài (天衣懷), Tào Sơn Tịch (曹山寂), Đầu Tử Thanh (投子青), Phù Dung Giai (芙蓉楷), Chơn Hiết Liễu (眞歇了), Hoằng Trí Giác (宏智覺), Cổ Nham Bích (古巖璧), Thiên Chương Sở (天章楚), Chơn Tịnh Văn (眞淨文), Ẩn Sơn Xán (隱山璨), Diệu Trạm Huệ (妙湛慧), Kim Túc Trí (金粟智); Tập III có Dương Kì Hội (楊岐會), Bạch Vân Đoan (白雲端), Bảo Ninh Dũng (保寧勇), Ngũ Tổ Diễn (五祖演), Nam Đường Hưng (南堂興), Phật Nhãn Viễn (佛眼遠), Viên Ngộ Cần (圜悟勤), Khai Phước Ninh (開福寧), Phật Tánh Thái (佛性泰), Nguyệt Am Quả (月菴果), Phục Am Phong (復菴封); Tập IV có Phật Tâm Tài (佛心才), Sơn Đường Tuân (山堂洵), Biệt Phong Trân (別峰珍), Vân Cái Bổn (雲蓋本), Hổ Kheo Long (虎丘隆), Ứng Am Hoa (應菴華), Mật Am Kiệt (密菴傑), Tùng Nguyên Nhạc (松源岳), Tào Nguyên Sanh (曹源生), Thiết Tiên Thiều (鐵鞭韶), Phá Am Tiên (破菴先), Tiếu Am Ngộ (笑菴悟, phụ thêm Hối Ông Minh [晦翁明]), Vô Thị Kham (無示諶), Tâm Văn Phần (心聞賁), Từ Hàng Phác (慈航朴); Tập V có Đại Huệ Cảo (大慧杲), Hối Am Quang (晦菴光), Thử Am Tịnh (此菴淨), Lãn Am Nhu (懶菴需), Phật Chiếu Quang (佛照光), Thùy Am Diễn (誰菴演), Độn Am Diễn (遯菴演), Trúc Nguyên Nguyên (竹原元), Mông Am Nhạc (蒙菴岳), Thạch Am Chiêu (石菴玿), Thối Am Tiên (退菴先), Hỗn Nguyên Mật (混源密), Không Tẩu Ấn (空叟印), Mộc Am Vĩnh (木菴永), Bá Đường Nhã (柏堂雅); Tập VI có Tuyết Đường Hành (雪堂行), Trúc Am Khuê (竹菴珪), Hối Am Quang (晦菴光), Biệt Phong Ấn (別峯印), Thối Am Kì (退菴奇), Đông Sơn Không (東山空), Quảng Giám Anh (廣鑑英), Thủy Am Nhất (水菴一), Biệt Phong Vân (別峰雲), Hoặc Am Thể (或菴體).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập