Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Bạn nhận biết được tình yêu khi tất cả những gì bạn muốn là mang đến niềm vui cho người mình yêu, ngay cả khi bạn không hiện diện trong niềm vui ấy. (You know it's love when all you want is that person to be happy, even if you're not part of their happiness.)Julia Roberts
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Giáo Phán »»

(敎相判敎, kyōsōhankyō): xem Giáo Phán (敎判, kyōhan) bên trên.
(敎相判釋, kyōsōhanshaku): xem Giáo Phán (敎判, kyōhan) bên trên.
(五辰八敎): hay Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎), tức là chủ trương của Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) về Giáo Phán của Thiên Thai Tông, lấy nội dung của các kinh điển Phật Giáo, rồi phân loại, giải thích; theo thứ tự thời gian thuyết pháp của đức thích tôn mà phân thành 5 thời là Hoa Nghiêm (華嚴), Lộc Uyển (鹿苑), Phương Đẳng (方等), Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Niết Bàn (涅槃); rồi căn cứ vào hình thức, phương tiện hóa độ chúng sanh mà phân thành Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎) là Đốn (頓), Tiệm (漸), Bí Mật (秘密), Bất Định (不定); và nương theo nội dung giáo lý để hóa đạo thích ứng với căn cơ chúng sanh mà phân thành Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎) là Tạng (藏), Thông (通), Biệt (別), Viên (圓). Đây được gọi là Ngũ Thời Bát Giáo. Về Ngũ Thời:
(1) Thời Hoa Nghiêm, chỉ thời kỳ đầu tiên trong vòng 37 ngày sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經), như lúc mặt trời chiếu trên núi cao. Nội dung thuyết pháp đương thời là Viên Giáo, Biệt Giáo. Đối tượng thuyết pháp là chúng Đại Bồ Tát của Biệt Giáo cũng như các phần tử ưu tú trong Viên Giáo. Nếu nói theo ý nghĩa đức Phật thuyết pháp, nhờ trí tuệ nội chứng, Ngài nghĩ ra cách thí nghiệm xem thử giáo pháp có thích hợp với căn cơ chúng sanh hay không; nên thời này được gọi là Nghĩ Nghi Thời (擬宜時, thời tìm ra phương pháp thích nghi); tương đương với vị sữa được lấy từ trong con bò ra. Hoa Nghiêm Kinh có 2 phần: trước và sau. Phần trước là thuyết pháp trong 37 ngày, không bao hàm Thanh Văn (聲聞); phần sau như Phẩm Nhập Pháp Giới (入法界品), có các Đại Thanh Văn như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v. Trình độ thuyết pháp của thời này rất cao, hàng Thanh Văn như câm như điếc, chưa thể lãnh hội trọn vẹn giáo thuyết.
(2) Thời Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), chỉ khoảng thời gian 12 năm sau khi đức Phật tuyên thuyết Hoa Nghiêm Kinh; là thời kỳ tại 16 nước lớn, Ngài thuyết 4 bộ A Hàm (阿含) của Phật Giáo Nguyên Thủy, gồm Trường A Hàm Kinh (長阿含經, hay Trường Bộ [p: Dīghanikāya, 長部]), Trung A Hàm Kinh (中阿含經, hay Trung Bộ [p: Majjhimanikāya, 中部]), Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, hay Tương Ưng Bộ [p: Saṁyuttanikāya, 相應部]), Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經, hay Tăng Chi Bộ [p: Aṅguttaranikāya, 增支部]); giống như thời kỳ mặt trời chiếu soi hang đá. Nhân vì lần đầu tiên Ngài thuyết pháp tại Lộc Dã Uyển (鹿野苑), nên có tên gọi như vậy. Bên cạnh đó, do vì kinh điển được thuyết vào thời kỳ này là A Hàm nên được gọi là Thời A Hàm. Trình độ giáo pháp thời kỳ này rất thấp, chỉ là giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy, được ví như vị cạo sữa.
(3) Thời Phương Tiện, chỉ khoảng thời gian sau thời Lộc Uyển, thuyết các kinh điển Đại Thừa như Duy Ma (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩), Thắng Man (s: Śrīmālā-siṁha-nāda-sūtra, 勝鬘), v.v., như lúc mặt trời chiếu xuống bình địa. Giáo pháp thời này cũng có Tạng, Thông, Biệt Viên; được ví cho vị của ván sữa sống. Phương tiện là thông xưng của kinh điển đại thừa và thời kỳ này bắt đầu tuyên thuyết kinh điển ấy, nên có tên gọi là Thời Phương Tiện.
(4) Thời Bát Nhã, chỉ trong vòng 22 năm sau Thời Phương Tiện, là thời kỳ thuyết các kinh điển thuộc hệ Bát Nhã, cho nên theo tên kinh mà có tên gọi như vậy. Thời kỳ này giống như mặt trời chiếu từng khu vực. Giáo pháp thời này thuộc về Tam Giáo Thông, Biệt và Viên; phá trừ những thiên chấp về Đại Thừa, Tiểu Thừa; thuyết rõ các pháp đều là Không, dung hợp cả đại lẫn tiểu thành một vị; được ví như vị của ván sữa chín. Thời kỳ này đức Phật vì nhóm Tu Bồ Đề (s, p: Subhūti, 須菩提) thuyết Bát Nhã, khiến cho họ ngưỡng mộ Đại Thừa.
(5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn, chỉ thời kỳ năng lực của người thọ giáo tiến đến cảnh giới tối cao, chứng nhập tri kiến của Phật, khoảng trong vòng 8 năm cuối trước khi đức Phật nhập Niết Bàn; trong thời gian ấy Ngài thuyết Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經) và Đại Bát Niết Bàn Kinh (s: Mahāparinirvāṇasūtra, 大般涅槃經) trước khi nhập diệt một ngày một đêm. Thời kỳ này giống như mặt trời chiếu đúng ngọ. Giáo pháp thời kỳ này thuần túy Viên Giáo viên mãn, được ví như vị của Đề Hồ.
Về Bát Giáo, như có đề cập bên trên, gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎, tức 4 hình thức và nghi tắc được đức Phật dùng để giáo hóa chúng sanh) và Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎, tức 4 nội dung giáo pháp được đức Phật dùng để giáo hóa chúng sanh). Hóa Nghi Tứ Giáo có:
(1) Đốn Giáo (頓敎), ban đầu đức Phật lấy phương pháp tự nội chứng trực tiếp giáo hóa chúng sanh; tương đương với giáo thuyết của Hoa Nghiêm Kinh.
(2) Tiệm Giáo (漸敎), là giáo pháp có nội dung giáo hóa từ cạn tiến dần đến sâu; tương đương với ba thời thuyết giáo của A Hàm, Phương Đẳng và Bát Nhã.
(3) Bí Mật Giáo (秘密敎), đức Phật tùy theo căn cơ, trình độ, năng lực bất đồng của mỗi chúng sanh mà thuyết giáo, khiến cho kia đây không biết nhau.
(4) Bất Định Giáo (不定敎), tức giáo pháp không nhất định, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà thể ngộ chân lý khác nhau. Trong đó, Bí Mật Giáo và Bất Định Giáo có điểm cọng thông là “Đồng Thính Dị Văn (同聽異聞, cùng nghe mà hiểu khác)”; có nghĩa là cùng ngồi trong một pháp hội nghe pháp mà mỗi người nghe hiểu mỗi khác, không ai giống ai.
Hóa Pháp Tứ Giáo có:
(1) Tam Tạng Giáo (三藏敎), gọi tắt là Tạng Giáo (藏敎), tức Tiểu Thừa Giáo (小乘敎).
(2) Thông Giáo (通敎), Thông có 3 nghĩa là thông đồng, thông nhập và cọng thông; tức giáo nghĩa Đại Thừa cọng thông cả Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát.
(3) Biệt Giáo (別敎), nghĩa là không cọng Hai Thừa mà chỉ vì Bồ Tát thuyết pháp, hoặc do sai biệt mà quán sát các pháp.
(4) Viên Giáo (圓敎), nghĩa là giáo lý viên dung, không thiên chấp, là lý chân thật, hay lý giác ngộ của đức Phật.
Như trong Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō No. 1931) có giải thích rằng: “Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, dĩ Ngũ Thời Bát Giáo, phán thích Đông lưu nhất đại Thánh Giáo, khánh vô bất tận (天台智者大師、以五時八敎、判釋東流一代聖敎、罄無不盡, Thiên Thai Trí Giả Đại Sư lấy Ngũ Thời Bát Giáo để giải thích Thánh Giáo một đời được truyền sang phương Đông, đến rốt cùng tận).” Hay như trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, CBETA No. 1524) quyển 25, phần Nam Châu Phổ Hiệp Pháp Sư Truyện (南洲溥洽法師傳) cũng có câu: “Hồng Võ Tân Hợi, xuất thế trú Cô Sơn Mã Não Giảng Tự, hựu trú Tô Châu Bắc Thiền, học đồ vân tập, sư vi khai diễn Ngũ Thời Bát Giáo, Như Lai nhất đại thí hóa chi nghi, vô trí ngu cao hạ, nhân nhân mãn sở dục nhi thối (洪武辛亥、出世住孤山瑪瑙講寺、又住蘇州北禪、學徒雲集、師爲開演五時八敎、如來一代施化之儀、無智愚高下、人人滿所欲而退, vào năm Tân Hợi [1371], niên hiệu Hồng Võ, Phổ Hiệp Pháp Sư đến trú tại Mã Não Giảng Tự ở Cô Sơn, rồi chuyển đến trú tại Bắc Thiền ở Tô Châu, học đồ tập trung rất đông, sư vì họ mà diễn giảng Ngũ Thời Bát Giáo, là nghi tắc giáo hóa một đời của Như Lai; không phân biệt trí ngu, cao thấp, mọi người đều thỏa mãn sự ham muốn của mình và lui ra).”
(法華玄義, Hokkegengi): thường gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義), gọi tắt là Huyền Nghĩa (玄義), 10 quyển, là một trong 3 bộ luận lớn của Thiên Thai Tông, do Thiên Thai Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) giảng thuật trong mùa an cư năm 594 tại Ngọc Tuyền Tự (玉泉寺), Kinh Châu (荆州) vào năm 593 (niên hiệu Khai Hoàng [開皇] thứ 13 của nhà Tùy); sau đó Chương An Quán Đảnh (章安灌頂) chấp bút chỉnh lý và thêm lời tựa cho bộ này. Từ 5 phương diện Thích Danh (釋名), Biện Thể (辨体), Minh Tông (明宗), Luận Dụng (論用) và Phán Giáo (判敎), bộ này nói lên đặc sắc của 5 phương diện này về đề Kinh Pháp Hoa. Đây được gọi là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (五重玄義) và trở thành truyền thống của phương pháp giải thích Kinh Pháp Hoa trong Thiên Thai Tông. Luận thư này khái quát về chữ pháp (法) thông qua 3 pháp là Tâm (心), Phật (佛), Chúng Sanh (眾生); giải thích chữ diệu (妙) là Tương Đãi (相待), Tuyệt Đãi (絕待); lại giải thích thêm bằng Thập Diệu (十妙) của Tích Môn (迹門) và Bản Môn (本門). Có thể nói đây là thư tịch khái luận Phật Giáo, lấy Giáo Phán độc đáo của Thiên Thai để thống nhiếp toàn bộ Phật Giáo.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập