Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Bạn sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu cứ mãi đi tìm những yếu tố cấu thành hạnh phúc. (You will never be happy if you continue to search for what happiness consists of. )Albert Camus
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Giáo Thọ »»

(證明師): vị thầy chứng giám cho đàn tràng pháp sự. Trong Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Uy Nghi Kinh (優婆塞五戒威儀經, Taishō Vol. 24, No. 1503) có đoạn: “Thập phương chư Phật cập Đại Ca Diếp, thân ư Phật tiền thọ A Lan Nhã pháp, Phật tác Chứng Minh Sư, vi tác chứng tri (十方諸佛及大迦葉、親於佛前受阿蘭若法、佛爲作證明師、爲作證知, mười phương các đức Phật và Đại Ca Diếp, đến trước Phật thọ pháp A Lan Nhã, đức Phật làm Thầy Chứng Minh, để chứng tri cho).” Hay trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) lại có đoạn rằng: “Đệ tử mỗ giáp đẳng, phổ cập pháp giới chúng sanh, phụng thỉnh Thích Ca Như Lai dĩ vi Hòa Thượng, phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vi A Xà Lê, phụng thỉnh Di Lặc Bồ Tát vi Giáo Thọ Sư, phụng thỉnh thập phương chư Phật vi Chứng Minh Sư, phụng thỉnh thập phương Bồ Tát dĩ vi kỷ bạn, ngã kim y Đại Thừa thậm thâm diệu nghĩa, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng (弟子某甲等、普及法界眾生、奉請釋迦如來以爲和尚、奉請文殊師利菩薩爲阿闍梨、奉請彌勒菩薩爲敎授師、奉請十方諸佛爲證明師、奉請十方菩薩以爲己伴、我今依大乘甚深妙義、歸依佛、歸依法、歸依僧, đệ tử … vân vân, cùng khắp chúng sanh trong pháp giới, cung thỉnh đức Thích Ca Như Lai làm Hòa Thượng, cung thỉnh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi làm A Xà Lê, cung thỉnh Bồ Tát Di Lặc làm Thầy Giáo Thọ, cung thỉnh mười phương các đức Phật làm Thầy Chứng Minh, con nay nương theo nghĩa mầu sâu xa của Đại Thừa, quay về nương tựa Phật, quay về nương tựa Pháp, quay về nương tựa Tăng).” Thông thường, vào cuối lòng văn Sớ có câu: “Bỉnh giáo phụng hành gia trì pháp sự, mỗ tự Trú Trì, húy thượng mỗ hạ mỗ Hòa Thượng chứng minh (秉敎奉行加持法事某寺住持諱上某下某和尚證明, Hòa Thượng chứng minh húy thượng … hạ …, Trú Trì Chùa … theo lời dạy vâng làm, gia trì pháp sự).”
(s, p: dāna, 檀那): còn gọi là Đà Na (柁那), Đán Na (旦那), Đà Nẵng (馱曩), Đàn (檀); ý dịch là thí (施, cho, ban phát), bố thí (布施), tức lấy tâm từ bi mà ban phát phước lợi cho tha nhân; cả Phạn Hán cùng gọi là Đàn Thí (檀施), Đàn Tín (檀信). Những tín đồ cúng dường y thực cho tăng chúng, hay xuất tiền tài để tiến hành pháp hội, tu hạnh bố thí được gọi là Thí Chủ (s: dānapati, 施主); âm dịch là Đàn Việt (檀越), Đà Na Bát Để (陀那鉢底), Đàn Na Ba Để (檀那波底), Đà Na Bà (陀那婆); cả Phạn Hán đều gọi chung là Đàn Việt Thí Chủ (檀越施主), Đàn Na Chủ (檀那主), Đàn Chủ (檀主). Trong Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập (翻譯名義集) quyển 1 có giải thích rằng: “Đàn Na hựu xưng Đàn Việt; Đàn tức thí; thử nhân hành thí, việt bần cùng hải, cố xưng Đàn Việt; tâm sanh xả pháp, năng phá xan tham, thị vi Đàn Na (檀那又稱檀越、檀卽施、此人行施,越貧窮海、故稱檀越、心生捨法、能破慳貪、是爲檀那, Đàn Na còn gọi là Đàn Việt; Đàn tức là bố thí; người này hành bố thí, vượt qua biển bần cùng; nên gọi là Đàn Việt; tâm sanh khởi pháp xả bỏ, có thể phá tan sự tham lam, keo kiệt, đó là Đàn Na).” Theo Thiện Sanh Kinh (善生經) của Trường A Hàm (長阿含經) quyển 11 có đoạn rằng: “Đàn Việt đương dĩ ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Vân hà vi ngũ ? Nhất giả thân hành từ, nhị giả khẩu hành từ, tam giả ý hành từ, tứ giả dĩ thời thí, ngũ giả môn bất chế chỉ. Thiện Sanh, nhược Đàn Việt dĩ thử ngũ sự cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn đương phục dĩ lục sự nhi Giáo Thọ chi. Vân hà vi lục ? Nhất giả phòng hộ bất linh vi ác, nhị giả chỉ thọ thiện xứ, tam giả giáo hoài thiện tâm, tứ giả sử vị văn giả văn, ngũ giả dĩ văn năng sử thiện giải, lục giải khai thị thiên lộ (檀越當以五事供奉沙門、婆羅門、云何爲五、一者身行慈、二者口行慈、三者意行慈、四者以時施、五者門不制止、善生、若檀越以此五事供奉沙門、婆羅門、沙門、婆羅門當復以六事而敎授之、云何爲六、一者防護不令爲惡、二者指授善處、三者敎懷善心、四者使未聞者聞、五者已聞能使善解、六者開示天路, Thí chủ nên lấy năm việc để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn. Thế nào là năm ? Một là thân hành từ bi, hai là miệng hành từ bi, ba là ý hành từ bi, bốn là cúng dường đúng thời, năm là cổng không đóng dừng. Này Thiện Sanh ! Nếu Thí chủ lấy năm việc trên để cung phụng Sa Môn, Bà La Môn; Sa Môn, Bà La Môn phải lấy sáu việc để giáo hóa lại cho họ. Thế nào là sáu ? Một là phòng ngừa, bảo hộ không khiến cho làm điều ác; hai là chỉ bày, truyền trao nơi tốt lành; ba là dạy họ luôn nhớ tâm lành; bốn là khiến cho người chưa nghe được nghe; năm là người được nghe có thể khiến cho khéo hiểu rõ; sáu là khai thị rõ đường lên trời).” Lại theo Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō No. 125) quyển 24 cho biết rằng vị Thí Chủ Đàn Việt tùy thời mà bố thí, cúng dường thì sẽ có 5 công đức:
(1) Tiếng tăm vang khắp bốn phương và mọi người đều hoan hỷ, vui mừng;
(2) Nếu sanh làm thân chúng sanh, không mang tâm xấu hổ và cũng không có sự sợ hãi;
(3) Được mọi người kính ngưỡng, người thấy cũng sanh tâm hoan hỷ;
(4) Sau khi mạng hết, hoặc sanh lên cõi Trời, được chư Thiên cung kính; nếu sanh trong cõi người, cũng được người tôn quý;
(5) Trí tuệ xuất chúng, thân hiện đời hết lậu hoặc, chẳng trãi qua đời sau.
Món cháo do Thí Chủ cúng dường cho đại chúng được gọi là Đàn Na Chúc (檀那粥). Như trong Oánh Sơn Thanh Quy (瑩山清規) quyển Thượng, phần Nguyệt Trung Hành Sự (月中行事) của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾, Keizan Jōkin, 1268-1325), Tổ khai sơn Tổng Trì Tự (總持寺, Sōji-ji) ở vùng Năng Đăng (能登, Noto), có câu: “Đàn Na Chúc, thán kệ như tiền, kim thần tịnh chúc nhất đường, phụng vị bổn tự Đàn Na thập phương Thí Chủ phước thọ trang nghiêm, ngưỡng bằng tôn chúng niệm (檀那粥、歎偈如前、金晨淨粥一堂、奉爲本寺檀那十方施主福壽莊嚴、仰憑尊眾念, Cháo Đàn Na, kệ tán thán như trước, hôm nay cháo chay một nhà, kính vì cầu chúc Đàn Na chùa này, Thí Chủ mười phương được phước thọ trang nghiêm, ngưỡng mong đại chúng tưởng niệm).” Đặc biệt, tại Nhật Bản, ngôi chùa sở thuộc nhà Đàn Việt được gọi là Đàn Na Tự (檀那寺, Danna-dera) hay Đán Na Tự (旦那寺, Danna-dera); hay còn có nghĩa là ngôi chùa ban pháp cho bản thân mình, hoặc là ngôi chùa do mình cúng dường và duy trì. Từ này xuất hiện trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永, 1624-1644), khi tiến hành đàn áp Thiên Chúa Giáo. Đàn Na Tự còn gọi với tên khác là Bồ Đề Tự (菩提寺), Hương Hoa Viện (香華院).
(帆足萬里, Hoashi Banri, 1778-1852): Nho gia, và là nhà Lý học sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; thông xưng là Lí Cát (里吉); tự Bằng Khanh (鵬卿); hiệu là Ngu Đình (愚亭); thân phụ là quan Gia Lão (家老) của Phiên Nhật Xuất (日出藩, Hiji-han) thuộc Phong Hậu (豐後, Bungo). Ông theo học với Hiếp Ngu Sơn (脇愚山), môn nhân của Tam Phố Mai Viên (三浦梅園); rồi sau đó làm Giáo Thọ cho trường học của Phiên này. Vào năm 1832 (Thiên Bảo [天保] 3), ông làm chức quan Gia Lão và dốc sức cải cách nền chính trị của Phiên. Ông đã từng giao du với nhóm Trung Tỉnh Trúc Sơn (中井竹山, Nakai Chikuzan), Quy Tỉnh Nam Minh (龜井南冥, Kamei Nammei), Quảng Lại Đạm Song (廣瀨淡窻, Hirose Tansō); và tư tưởng cơ bản của ông là Nho học. Ông từng lấy tư tưởng Lý Học (Vật Lý) của Tam Phố Mai Viên làm cơ sở, có chí muốn truy cho tận cùng áo nghĩa ấy và nghiên cứu các sách vở khoa học của Hòa Lan. Từ khoảng 50 tuổi, ông bắt đầu học về khoa học tự nhiên của phương Tây, và viết các tác phẩm Cùng Lí Thông (窮理通), Y Học Khải Mông (醫學啟蒙), v.v. Các trước tác khác có Đông Tiềm Phu Luận (東潛夫論), Nhập Học Tân Luận (入學新論), v.v.
(清涼澄觀, Shōryō Chōkan, 738-839): vị tổ thứ 4 của Thiên Thai Tông Trung Quốc, sống dưới thời nhà Đường, người Sơn Âm (山陰), Việt Châu (越州, Thiệu Hưng, Triết Giang), họ Hạ Hầu (夏候), tự Đại Hưu (大休), hiệu Thanh Lương Quốc Sư (清涼國師), Hoa Nghiêm Bồ Tát (華嚴菩薩), Hoa Nghiêm Sớ Chủ (華嚴疏主). Năm 11 tuổi, ông xuất gia với Bái Thiền Sư (霈禪師) ở Bảo Lâm Tự (寳林寺) và đến năm 14 tuổi thọ giới đắc độ. Từ năm đầu (758) niên hiệu Càn Nguyên (乾元) trở về sau, ông theo Lễ Luật Sư (醴律師) ở Thê Hà Tự (棲霞寺) vùng Nhuận Châu (潤州) học về Luật; rồi lại nương theo Huyền Bích (玄璧) ở Kim Lăng (金陵) học về Tam Luận. Trong khoảng thời gian niên hiệu Đại Lịch (大曆), ông học Đại Thừa Khởi Tín Luận, Niết Bàn Kinh ở Ngõa Quan Tự (瓦官寺). Bên cạnh đó, ông còn theo Hoài Nam Pháp Tạng (淮南法藏) học Hoa Nghiêm Kinh. Năm thứ 7 (772) niên hiệu Đại Lịch, ông đến Diệm Khê (剡溪) theo Huệ Lượng (慧量) ở Thành Đô (城都) học Tam Luận lần nữa. Đến năm thứ 10 cùng niên hiệu trên, ông đến Giang Tô (江蘇), theo Trạm Nhiên (湛然) học Thiên Thai Chỉ Quán, Pháp Hoa Kinh, Duy Ma Kinh, v.v. Ông còn tham yết Duy Trung (惟忠) ở Ngưu Đầu Sơn (牛頭山), Đạo Khâm (道欽) ở Kính Sơn (徑山), v.v., để học về Thiền pháp của Nam Tông, rồi học Thiền pháp của Bắc Tông với Huệ Vân (慧雲). Ngoài ra, ông còn thông cả Phệ Đà, Ngũ Minh, nghi thức bí chú, v.v. Vào năm thứ 11 niên hiệu Đại Lịch, ông đi ngao du Ngũ Đài Sơn (五台山), Nga Mi Sơn (峨嵋山), sau trở về sống tại Đại Hoa Nghiêm Tự (大華嚴寺) trên Ngũ Đài Sơn, chuyên tu Phương Đẳng Sám Pháp. Ông thường giảng tông chỉ Hoa Nghiêm tại chùa này và Sùng Phước Tự (崇福寺), danh tiếng vang khắp kinh đô. Đến năm thứ 12 (796) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), thể theo lời mời của vua Đức Tông, ông vào Trường An (長安), cùng với Tam Tạng Bát Nhã (三藏般若) người Kế Tân (罽賓) dịch Tứ Thập Hoa Nghiêm Kinh (四十華嚴經) do quốc vương Ô Trà (烏茶) dâng cống, rồi đem dâng lên cho triều đình; nhân đó nhà vua rất vui mừng, ban cho Tử Y và hiệu Giáo Thọ Hòa Thượng (敎授和尚). Ngoài ra, ông còn phụng sắc chỉ triều đình chế 10 quyển kinh sớ tại Thảo Đường Tự (草堂寺) thuộc Chung Nam Sơn (終南山) và đây chính là bản Trinh Nguyên Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Sớ (貞元新華嚴經疏). Vào năm thứ 15 (có thuyết cho là 11) niên hiệu Trinh Nguyên, nhân dịp sinh nhật, vua Đức Tông mời ông vào nội điện, diễn thuyết tông chỉ Hoa Nghiêm, nhờ vậy nhà vua mới giác ngộ, bảo rằng: “nhờ diệu pháp mà làm cho trong sạch, mát mẻ tâm của Trẫm”, cho nên ban cho ông hiệu là Thanh Lương Quốc Sư. Ông đã từng lập ra 10 thệ nguyện để tự khuyên răn mình, cho nên người ta gọi là Thanh Lương Thập Nguyện. Đến khi vua Thuận Tông lên ngôi, vua cũng lấy lễ bái ông làm Quốc Sư, trong triều đình ngoài dân dã đều mến mộ cao phong của ông. Vào năm thứ 5 (810) niên hiệu Nguyên Hòa (元和) đời vua Hiến Tông, ông trả lời các câu vấn đáp của nhà vua, giảng rõ về nghĩa của pháp giới Hoa Nghiêm, được vua hài lòng, bèn tặng cho ông hiệu là Tăng Thống Thanh Lương Quốc Sư (僧統清涼國師). Đến năm thứ 4 niên hiệu Khai Thành (開成), ông thị tịch, hưởng thọ 102 tuổi. Có thuyết cho là ông mất trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Hòa, hưởng thọ 70 tuổi. Ông được táng trong thạch thất trên Chung Nam Sơn và Tướng Quốc Bùi Hưu (裴休) soạn bia văn. Ông đã trãi qua 9 triều đại, từng giảng kinh cho 7 đời vua, đệ tử có Tông Mật (宗密), Tăng Duệ (僧叡), Pháp Ấn (法印), Tịch Quang (寂光), và đệ tử đắc pháp có hơn 100 người. Trước tác của ông có rất nhiều như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ (大方廣佛華嚴經疏) 60 quyển, Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao (隨疏演義鈔) 90 quyển, Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu (華嚴經綱要) 3 quyển, Ngũ Uẩn Quán (五蘊觀), Tam Thánh Viên Dung Quán Môn (三聖圓融觀門), v.v.
(座下): có ba nghĩa chính. (1) Từ kính xưng đối với bậc tôn đức. Như trong tác phẩm Học Lâm (學林), chương Trẫm (朕), của Vương Quán Quốc (王觀國, ?-?) nhà Tống, giải thích rằng: “Xưng tôn giả vi tòa hạ, kỷ hạ, tịch hạ, các hạ (稱尊者爲座下、几下、席下、閣下, gọi các bậc tôn kính là tòa hạ, kỷ hạ, tịch hạ, các hạ).” (2) Dưới giảng tòa. Như trong bài thơ Hoa Sơn Nữ (華山女) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824) nhà Đường có câu: “Hoàng y Đạo sĩ diệc giảng thuyết, tòa hạ liêu lạc như minh tinh (黃衣道士亦講說、座下寥落如明星, Đạo sĩ áo vàng cũng giảng thuyết, dưới tòa vắng vẻ như sao sáng).” (3) Dưới tòa hoa sen, mượn chỉ chư Phật, Bồ Tát. Như trong tác phẩm Nại Hà Thiên (奈何天), phần Giảo Thoát (狡脫), của Lý Ngư (李漁, 1611-1680) nhà Thanh, có đoạn: “Tình nguyện quy y tòa hạ, cố cá truyền kinh thính pháp chi nhân (情願皈依座下、做個傳經聽法之人, tình nguyện quy y dưới tòa, tự làm người truyền kinh điển và nghe pháp).”
(圓覺): tánh giác viên mãn, nghĩa là lý tánh do Như Lai chứng được có đầy đủ muôn đức, tròn đầy cùng khắp, linh diệu sáng tỏ. Hơn nữa, hết thảy chúng hữu tình đều có bản giác, chơn tâm, từ vô thỉ đến nay thường trú thanh tịnh, sáng rực không mê mờ, rõ ràng thường biết; nếu nói về thể thì đó là nhất tâm; nếu nói về nhân là Như Lai Tạng (如來藏); nói về quả là Viên Giác; cùng đồng nhất với chân như, Phật tánh, pháp giới, Niết Bàn, Bồ Đề, v.v. Trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, gọi tắt là Viên Giác Kinh, Taishō Vol. 17, No. 842) giải thích rằng: “Vô thượng Pháp Vương hữu đại Đà La Ni môn, danh vi Viên Giác, lưu xuất nhất thiết thanh tịnh chân như Bồ Đề Niết Bàn cập Ba La Mật, Giáo Thọ Bồ Tát (無上法王有大陀羅尼門、名爲圓覺、流出一切清淨眞如菩提涅槃及波羅蜜、敎授菩薩, đấng Pháp Vương vô thượng có pháp môn đại Đà La Ni tên là Viên Giác, lưu xuất hết thảy chân như, Bồ Đề, Niết Bàn và Ba La Mật, dạy dỗ và truyền trao cho Bồ Tát).” Hay trong Viên Giác Kinh Lược Sớ Tự Chú (圓覺經略疏序注, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 10, No. 256) của Khuê Phong Tông Mật (圭峰宗密, 780-841) có chú giải rằng: “Vạn pháp hư ngụy, duyên hội nhi sanh, sanh pháp bổn vô, nhất thiết duy thức, thức như huyễn mộng, đản thị nhất tâm, tâm tịch nhi tri, mục chi vi Viên Giác (萬法虛僞、緣會而生、生法本無、一切唯識、識如幻夢、但是一心、心寂而知、目之爲圓覺, muôn pháp không thật, do duyên gặp mà sinh ra, pháp sanh ra vốn không, hết thảy chỉ có biết, biết như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm, tâm lặng mà biết, mắt thấy là Viên Giác).”
(羯磨): tức Yết Ma A Xà Lê (s: karmācārya, p: kammācarya, 羯磨阿闍梨), là tên gọi của một trong Tam Sư (三師), gồm Giới Sư (戒師, tức Đàn Đầu Hòa Thượng [壇頭和尚]), Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) và Giáo Thọ A Xà Lê (敎授阿闍梨). Hay là một trong 5 loại A Xà Lê, như trong Di Sa Tắc Bộ Hòa Ê Ngũ Phần Luật (彌沙塞部和醯五分律, Taishō Vol. 22, No. 1421) quyển 16 có nêu rõ là: “Hữu ngũ chủng A Xà Lê, hữu Xuất Gia A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Yết Ma A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê (有五種阿闍梨、有出家阿闍梨、敎授阿闍梨、羯磨阿闍梨、受經阿闍梨、依止阿闍梨, có năm loại A Xà Lê, có Xuất Gia A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Yết Ma A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê).” Yết Ma A Xà Lê còn gọi là Yết Ma Sư (羯磨師), Yết Ma Giới Sư (羯磨戒師); là vị A Xà Lê hướng dẫn cho Giới Tử trong giới đàn cách thức Yết Ma xin cầu giới pháp, v.v. Cho nên, trong Ngũ Phần Luật quyển 16 nêu trên có giải thích rõ vai trò của vị này như sau: “Thọ Cụ Túc giới thời vi tác Yết Ma, thị danh Yết Ma A Xà Lê (受具足戒時爲作羯磨、是名羯磨阿闍梨, tác pháp Yết Ma khi thọ Cụ Túc giới, đó gọi là Yết Ma A Xà Lê).” Tiểu Thừa Giới thì lấy vị thầy hiện tiền làm Yết Ma A Xà Lê; cùng với vị Giáo Thọ A Xà Lê có giới lạp phải từ 5 tuổi trở lên. Đối với Đại Thừa Viên Đốn Giới (大乘圓頓戒) thì cung thỉnh đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利) làm Yết Ma A Xà Lê, như trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (受菩薩戒儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1085) có ghi rằng: “Phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật tác Yết Ma A Xà Lê (奉請文殊師利龍種上尊王佛作羯磨阿闍梨, cung thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật làm Yết Ma A Xà Lê).” Trong phần Thỉnh Giới Sư Pháp (請戒師法) của Tăng Yết Ma (僧羯磨, Taishō Vol. 40, No. 1809) quyển Thượng có đoạn rằng: “Đại Đức nhất tâm niệm, ngã mỗ giáp, kim thỉnh Đại Đức vi Yết Ma A Xà Lê, nguyện Đại Đức vị ngã tác Yết Ma A Xà Lê, ngã y Đại Đức cố, đắc thọ Cụ Túc giới (大德一心念、我某甲、今請大德爲羯磨阿闍梨、願大德爲我作羯磨阿闍梨、我依大德故、得受具足戒, Đại Đức một lòng ghi nhớ, con tên là …, nay cung thỉnh Đại Đức làm Yết Ma A Xà Lê, cúi mong Đại Đức vì con làm Yết Ma A Xà Lê, vì con nương vào Đại Đức, được thọ Cụ Túc giới).” Trong Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 có đoạn rằng: “Yết Ma A Xà Lê linh đệ tử ư Bắc môn diện hướng đàn, hữu tất trước địa hồ quỳ hiệp chưởng (羯磨阿闍梨令弟子於北門面向壇、右膝著地胡跪合掌, Yết Ma A Xà Lê bảo đệ tử nơi cửa Bắc mặt hướng về đàn tràng, đầu gối phải chấm đất, quỳ xuống chấp tay).”
(羯磨): tức Yết Ma A Xà Lê (s: karmācārya, p: kammācarya, 羯磨阿闍梨), là tên gọi của một trong Tam Sư (三師), gồm Giới Sư (戒師, tức Đàn Đầu Hòa Thượng [壇頭和尚]), Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) và Giáo Thọ A Xà Lê (敎授阿闍梨). Hay là một trong 5 loại A Xà Lê, như trong Di Sa Tắc Bộ Hòa Ê Ngũ Phần Luật (彌沙塞部和醯五分律, Taishō Vol. 22, No. 1421) quyển 16 có nêu rõ là: “Hữu ngũ chủng A Xà Lê, hữu Xuất Gia A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Yết Ma A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê (有五種阿闍梨、有出家阿闍梨、敎授阿闍梨、羯磨阿闍梨、受經阿闍梨、依止阿闍梨, có năm loại A Xà Lê, có Xuất Gia A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Yết Ma A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê).” Yết Ma A Xà Lê còn gọi là Yết Ma Sư (羯磨師), Yết Ma Giới Sư (羯磨戒師); là vị A Xà Lê hướng dẫn cho Giới Tử trong giới đàn cách thức Yết Ma xin cầu giới pháp, v.v. Cho nên, trong Ngũ Phần Luật quyển 16 nêu trên có giải thích rõ vai trò của vị này như sau: “Thọ Cụ Túc giới thời vi tác Yết Ma, thị danh Yết Ma A Xà Lê (受具足戒時爲作羯磨、是名羯磨阿闍梨, tác pháp Yết Ma khi thọ Cụ Túc giới, đó gọi là Yết Ma A Xà Lê).” Tiểu Thừa Giới thì lấy vị thầy hiện tiền làm Yết Ma A Xà Lê; cùng với vị Giáo Thọ A Xà Lê có giới lạp phải từ 5 tuổi trở lên. Đối với Đại Thừa Viên Đốn Giới (大乘圓頓戒) thì cung thỉnh đức Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利) làm Yết Ma A Xà Lê, như trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (受菩薩戒儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1085) có ghi rằng: “Phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật tác Yết Ma A Xà Lê (奉請文殊師利龍種上尊王佛作羯磨阿闍梨, cung thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật làm Yết Ma A Xà Lê).” Trong phần Thỉnh Giới Sư Pháp (請戒師法) của Tăng Yết Ma (僧羯磨, Taishō Vol. 40, No. 1809) quyển Thượng có đoạn rằng: “Đại Đức nhất tâm niệm, ngã mỗ giáp, kim thỉnh Đại Đức vi Yết Ma A Xà Lê, nguyện Đại Đức vị ngã tác Yết Ma A Xà Lê, ngã y Đại Đức cố, đắc thọ Cụ Túc Giới (大德一心念、我某甲、今請大德爲羯磨阿闍梨、願大德爲我作羯磨阿闍梨、我依大德故、得受具足戒, Đại Đức một lòng ghi nhớ, con tên là …, nay cung thỉnh Đại Đức làm Yết Ma A Xà Lê, cúi mong Đại Đức vì con làm Yết Ma A Xà Lê, vì con nương vào Đại Đức, được thọ Cụ Túc Giới).” Trong Diệu Cát Tường Bình Đẳng Bí Mật Tối Thượng Quán Môn Đại Giáo Vương Kinh (妙吉祥平等祕密最上觀門大敎王經, Taishō Vol. 20, No. 1192) quyển 4 có đoạn rằng: “Yết Ma A Xà Lê linh đệ tử ư Bắc môn diện hướng đàn, hữu tất trước địa hồ quỳ hiệp chưởng (羯磨阿闍梨令弟子於北門面向壇、右膝著地胡跪合掌, Yết Ma A Xà Lê bảo đệ tử nơi cửa Bắc mặt hướng về đàn tràng, đầu gối phải chấm đất, quỳ xuống chấp tay).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.19 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập