Yếu tố của thành công là cho dù đi từ thất bại này sang thất bại khác vẫn không đánh mất sự nhiệt tình. (Success consists of going from failure to failure without loss of enthusiasm.)Winston Churchill
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người tốt không cần đến luật pháp để buộc họ làm điều tốt, nhưng kẻ xấu thì luôn muốn tìm cách né tránh pháp luật. (Good people do not need laws to tell them to act responsibly, while bad people will find a way around the laws.)Plato
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Giác linh »»
(神煞): hay Thần Sát Tinh (神煞星), là tên gọi những ngôi sao chiếu mạng quyết định việc tốt xấu của con người. Một số sao Thần Sát thường dùng như:
(1) Thiên Ất Quý Nhân (天乙貴人), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, với người lớn hơn mình, với người khác phái, thích xã giao.
(2) Thiên Y (天醫), người gặp sao này thì có năng lực rất mạnh như học tập, lý giải, quán sát, mô phỏng, tâm hiếu kỳ, tâm nghiên cứu, trực giác, v.v.
(3) Thiên Đức (天德), người gặp sao này thì có tài trí mưu lược xuất sắc, tâm vinh dự cao, năng lực lớn, phàm mọi việc gặp hung dữ hóa thành tốt, được quý nhân giúp đỡ.
(4) Nguyệt Đức (月德), người gặp sao này thì có duyên với mọi người, xã giao, tâm cung kính, tâm trách nhiệm, năng lực thích ứng cao.
(5) Nguyệt Đức Hợp (月德合), người gặp sao này thì có năng lực quán sát, đối ứng, bàn chuyện kinh doanh rất mạnh.
(6) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì trong đời này có tiền tài dư dật, kinh tế không bao giờ gặp nguy cơ, có quý nhân giúp đỡ, thường có phước, có năng lực làm thân, kết duyên lành với mọi người.
(7) Văn Xương (文昌), người gặp sao này thì có năng lực viết lách, văn nghệ, học tập.
(8) Tam Kỳ Quý (三奇貴), người gặp sao này thì có năng lực học tập tinh chuyên, sức tập trung mạnh, đầu óc làm việc linh mẫn, cơ trí nhạy bén, dễ thành nhân tài có kỹ năng chuyên nghiệp, như công trình sư, nhà tư vấn, v.v.
(9) Lục Tú (六秀), là ngôi sao có năng lực viết văn trác việt, người gặp sao này thì có năng lực học tập, tư duy rất mạnh, thuộc nhà nghệ thuật ở trạng thái tĩnh như họa sĩ, nhà thư pháp, sáng tác khúc từ, v.v.
(10) Thập Linh Nhật (十靈日), là ngôi sao thuộc về tôn giáo, người gặp sao này thì có trực Giác linh nhuệ, khéo quán sát lời nói, nhìn sắc mặt người, năng lực lãnh ngộ, khéo hiểu ý người, v.v.
(11) Khôi Cương (魁罡), người gặp sao này thì về ăn uống nên thận trọng, chớ ăn thịt bò, chó; duyên hôn nhân rắc rối, tai tiếng, có đủ tinh thần độc lập tự chủ, năng lực tổ chức mạnh.
(12) Học Đường (學堂), người gặp sao này thì có năng lực bắt chước, sáng tác, tưởng tượng, lý giải.
(13) Học Sĩ (學士), người gặp sao này thì có tâm nghiên cứu, lòng hiếu kỳ, muốn tìm hiểu, có năng lực học thuộc lòng, nhớ dai.
(14) Kim Quỹ (金匱), người gặp sao này thì có đầy đủ năng lực sáng tác, lãnh ngộ, cầm quyền, quyết đoán, quy hoạch.
(15) Tấn Thần (進神), người gặp sao này thì có ý thức chủ quan rất mạnh, kiêu ngạo, tự phụ, không chịu phục tùng bất cứ ai, nóng nảy.
(16) Lộc Thần (祿神), người gặp sao này thì có thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(17) Bối Lộc (背祿), đại diện cho những người xem thường tổ tiên, ly hương biệt xứ, không được hưởng phúc ấm của tổ tông.
(18) Kiến Lộc (建祿:代表建功立業白手自足,不得雙視庇蔭,不宜合夥生意), đại diện cho những người tạo công lập nghiệp tay trắng một mình, không được phúc ấm của song thân.
(19) Chuyên Lộc (專祿), đại diện cho những người thân thể tráng kiện, tinh thần vững mạnh, sức chiến đấu bền bỉ, cả hai vợ chồng đều tạo nên sự nghiệp vẻ vang.
(20) Quy Lộc (歸祿), đại diện cho những người giao tế rộng rãi, tài lộc đầy đủ, tránh chuyện vay mượn, có thể tránh kiện tụng.
(21) Hoa Cái (華蓋), người gặp sao này thì có tâm cầu học, tự động tìm tòi, tự ngộ để đạt đến kết quả cao, có thiên tánh về mỹ thuật, thiết kế, trang hoàng, âm nhạc; về phương diện văn học thì rất hứng thú và có thiên tài; đây là ngôi sao chỉ chuyên về nghệ thuật, tôn giáo, nên có tánh nghiên cứu, muốn tìm cầu, năng lực học tập, tính chất mẫn cảm.
(22) Cô Thần (孤辰), người gặp sao này thì có tánh cách cô đơn, trầm mặc, không nói nhiều, tâm trong sạch, ít ham muốn, thường an phận, không có tâm cầu tiến.
(23) Quả Tú (寡宿), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái rất ít, duyên hôn nhân cũng mong manh, chủ nghĩa độc thân.
(24) Nguyên Thần (元辰), là sao hao tổn, miệng tiếng.
(25) Kim Dư (金輿), là sao về tài của cùng với quan hệ phối ngẫu, được hỗ trợ về chuyện phối ngẫu, kỹ thuật.
(26) Kim Tinh (金星), người gặp sao này thì anh minh, trí tuệ, dũng cảm, quả quyết, kiên nhẫn, cương nhu đều có đủ, chú trọng vinh dự, quyền uy.
(27) Thiên Xá (天赦), người gặp sao này thì một đời bị kiện tụng cửa quan, lao ngục, tai hại ngoài ý muốn, một đời thường đều có thể gặp xấu hóa tốt, có kinh động nhưng không nguy hiểm.
(28) Phước Tinh (福星), người gặp sao này thì có quý nhân tương trợ, kinh tế phát triển, một đời tài lộc, ăn uống sung túc, có duyên xã giao, năng lực kết duyên lành.
(29) Tướng Tinh (將星), người gặp sao này thì hiển đạt về quan quyền, có thể nắm quyền bính trong tay, có năng lực quản lý, quyết đoán, cơ trí.
(30) Dịch Mã (驛馬), là sao đổi dời, đi xa, biến động.
(31) Âm Dương Sát (陰陽煞), người gặp sao này thì nên tiến hành duyên hôn nhân chậm, không nên sớm, mới có thể trừ được lo âu thay đổi chuyện hôn nhân, nên thận trọng trong việc giao tế với người khác phái, mới có thể tránh được chuyện thị phi, tranh giành.
(32) Kiếp Sát (劫煞), người gặp sao này thì có cơ trí linh mẫn, phản ứng nhạy bén, tâm háo thắng.
(33) Quải Kiếm Sát (掛劍煞), người gặp sao này thì dễ mắc phải các bệnh tật về gân cốt, đường ruột, cơ quan vận động, v.v., hằng ngày nên đề phòng các vật kim loại bén nhọn, vật nguy hiểm gây thương tích; dễ bị thương tích đánh đập, ngã quỵ, té xuống đất.
(34) Câu Giao (勾絞), là sao phiền phức về chuyện cảm tình, hôn nhân.
(35) Đào Hoa (桃花), đại diện cho sức hấp dẫn, thu hút, năng lực thưởng thức, trang sức, có duyên xã giao.
(36) Thiên Hỷ (天喜), là sao vui sướng, như ý, có cảm giác thâm sâu, năng lực hòa đồng, tình người.
(37) Hồng Diễm (紅艷), là sao nghệ thuật lãng mạn, có đủ năng lực thưởng thức, thiết kế trang phục, trang hoàng, có duyên với người khác phái.
(38) Hồng Loan (紅鸞), người gặp sao này thì có duyên với người khác phái, tư tưởng lãng mạn, có năng lực phối hợp sắc màu nghệ thuật tranh tĩnh vật.
(39) Lưu Hà (流霞), người gặp sao này thì trong quá trình sinh sản dễ gặp nguy hiểm, lưu sản, dễ mắc bệnh tuần hoàn huyết dịch về tim mạch.
(40) Vong Thần (亡神), là sao ẩn tàng, không lộ hiện tung tích, người gặp sao này thì giỏi về mưu lược, vui, buồn, tức giận đều không thể hiện ra ngoài sắc mặt.
(41) Dương Nhận (羊刃), là sao về chức võ, chủ yếu người gặp sao này thì có tâm háo thắng, không chịu khuất phục, dõng mãnh, đảm đương, lanh lẹ.
(42) Huyết Nhận (血刃), là sao thương tích ngoài ý muốn, bất ngờ, người gặp sao này thì hằng ngày nên thận trọng về bỏng lửa, thương tích đánh đập, các vật kim loại, bén nhọn, chú ý về giao thông.
(43) Phi Nhận (飛刃), là sao gặp công kích bất ngờ, tranh tụng, thị phi.
(44) Cách Giác (隔角), là sao chủ về việc kiện tụng cửa quan, miệng tiếng, thị phi; nếu gặp Hình Xung (刑沖) thì ắt sẽ có tai họa về kiện tụng, lao ngục.
(45) Không Vong (空亡), kim loại rỗng thì kêu to, lửa trống thì sẽ phát lớn, cây rỗng thì mục, đất rỗng thì lỡ sụt; người gặp sao này thì vô duyên với thân thích, nên tinh tấn tu hành.
Ngoài ra, còn có 12 ngôi sao Thần Sát, được gọi là Lưu Niên Tuế Số Thập Nhị Thần Sát (流年歲數十二神煞), lưu hành trong 12 tháng, gồm:
(1) Thái Tuế (太歲), có câu kệ rằng: “Thái Tuế đương đầu tọa, chư thần bất cảm đương, tự thân vô khắc hại, tu dụng khốc đa dương (太歲當頭坐、諸神不敢當、自身無剋害、須用哭爹娘, Thái Tuế ngay đầu tọa, các thần chẳng dám chường, tự thân không nguy hại, nên thương khóc mẹ cha).” Sao này có công năng đè ép các sao Thần Sát, người gặp sao này nếu gặp vận thì xấu nhiều tốt ít, chủ yếu gặp tai nạn bất trắc, nên làm việc phước thiện.
(2) Thái Dương (太陽), có câu kệ rằng: “Thái Dương cát tinh chiếu, cầu tài ngộ trân bảo, âm dương hữu hòa hợp, định cảm phước lai bảo (太陽吉星照、求財遇珍寶、陰陽有和合、定感福來保, Thái Dương sao tốt chiếu, cầu tài gặp của báu, âm dương có hòa hợp, tất có phước đến nhà).” Người gặp sao này chủ yếu chiếu sáng hóa tốt, lấy lễ đãi người, thông minh cần mẫn, có chuyện vui giáng lâm.
(3) Tang Môn (喪門), câu kệ là: “Tang Môn tối vi hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phá tài tinh ngoại hiếu, nùng huyết kiến tai nghinh (喪門最爲凶、孝服重重逢、破財幷外孝、濃血見災迎, Tang Môn thật rất hung, tang phục lại trùng phùng, phá tài thêm bất hiếu, máu chảy thấy tai ương).” Người gặp sao này chủ yếu có đám tang, khóc lóc, hiếu sự hay hung tai, bị trộm cướp, con nhỏ sợ bị mất mạng vì xe cộ.
(4) Thái Âm (太陰), câu kệ là: “Thái Âm nhập mạng lai, thiêm hỷ hựu tấn tài, quý nhân tương tiếp dẫn, canh tác ngộ tài phong (太陰入命來、添喜又進財、貴人相接引、耕作遇財豐, Thái Âm gặp mạng này, thêm vui lại có tài, quý nhân thường giúp đỡ, canh tác gặp của hay).” Sao này chủ yếu tích tụ tài của hoặc thuộc loại ngũ quỷ đem tài của đến, người gặp sao này kinh doanh rất tốt, mỗi ngày càng phát tài, rất hợp với người nữ.
(5) Quan Phù (官符), có câu kệ là: “Quan Phù nhập mạng hung, khẩu thiệt quan ty trùng, phá tài kiêm ngoại hiếu, tác phước đảo thương cùng (官符入命凶、口舌官司重、破財兼外孝、作福禱蒼窮, Quan Phù gặp mạng hung, miệng tiếng chốn quan trường, phá tài thêm bất hiếu, làm phước cầu khắp cùng).” Người gặp sao này thường gặp kẻ tiểu nhân, tất gây ồn ào nơi cửa quan, chọn bạn nên cẩn thận, nên khuyên kẻ tiểu nhân làm phước.
(6) Tử Phù (死符), bài kệ rằng: “Tử Phù nhập mạng lai, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ mẫu thê nhi khắc, tác phước miễn tai ương (死符入命來、孝服重重逢、父母妻兒剋、作福免災殃, Tử Phù gặp mạng đây, tang phục lại chất chồng, mẹ cha vợ con khắc, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu có tai họa đột xuất như hình phạt của quan ty, bệnh tật, tranh đấu, phá tài, v.v. Người gặp sao này nên thận trọng khi đi băng qua khe nước, nên tìn đường vòng mà đi.
(7) Tuế Phá (歲破), bài kệ rằng: “Tuế Phá nhập mạng lai, nhật nguyệt phá tiền tài, lục súc hữu tổn thất, hợp gia vĩnh vô tai (歲破入命來、日月破錢財、六畜有損失、合家永無災, Tuế Phá gặp mạng đây, trời trăng phá tiền tài, gia súc có tổn thất, cả nhà hết ương tai).” Tuế Phá có nghĩa là xung phá Thái Tuế, chủ yếu làm hao phá tài vật cũng như trong nhà nhiều tai họa kéo dài trong nữa năm.
(8) Nguyệt Đức (月德), bài kệ rằng: “Nguyệt Đức nhập mạng lai, tứ quý tấn hoành tài, tại gia dã vô sự, xuất lộ dã vô tai (月德入命來、四季進橫財、在家也無事、出路也無災, Nguyệt Đức gặp mạng đây, bốn mùa thêm tiền tài, trong nhà cũng vô sự, ra đường chẳng hung tai).” Sao này chủ yếu là đức của người lớn, được gọi là Long Đức (龍德), nhờ bố thí, làm việc thiện tạo lợi lạc, trăm việc gặp xấu hóa thành tốt.
(9) Bạch Hổ (白虎), bài kệ rằng: “Bạch Hổ khiếu nhai nhai, nhân đinh tổn huyết tài, ngưu sự tài quá khứ, mã sự hựu tấn lai (白虎叫涯涯、人丁損血財、牛事才過去、馬事又進來, Bạch Hổ kêu hoài hoài, người thêm tổn tiền tài, chuyện trâu về quá khứ, chuyện ngựa lại về đây).” Sao này chủ yếu có tai họa về tang lễ, phá tài, họa về xe cộ, thương tật; nếu có hóa giải thì sẽ nhẹ bớt; nếu không hóa giải thì quá xấu.
(10) Phước Đức (福德), bài kệ rằng: “Phước Đức nhập mạng du, niên nguyệt tấn tứ ngưu, thiêm hộ tinh tấn khẩu, tài hỷ lưỡng toàn chu (福德入命遊、年月進四牛、添戶並進口、財喜兩全週, Phước Đức đến mạng chơi, năm tháng tăng bò trâu, thêm nhà lại thêm người, tài vui cả hai tròn).” Sao này chủ yếu tốt đẹp, hanh thông, vui vẻ, có thiên tướng, được trời phù hộ, đến đâu gặp xấu hóa tốt, đại thành công.
(11) Điếu Khách (吊客), bài kệ rằng: “Điếu Khách nhập mạng hung, nội ngoại hiếu phục phùng, quan tai tinh nùng huyết, tiểu khẩu đa tao độn (吊客入命凶、內外孝服逢、官災並濃血、小口多遭迍, Điếu Khách đến mạng hung, trong ngoài tang phục chung, tai vạ máu loang chảy, thận trọng miệng tiếng tăm).” Sao này chủ yếu về tang phục, chuyện hung tai, bệnh tật, lo buồn khóc than, trộm cắp, tai nạn về cốt nhục.
(12) Bệnh Phù (病符), bài kệ rằng: “Bệnh Phù nhập mạng hung, hiếu phục trùng trùng phùng, phụ phục hữu hình khắc, tác phước miễn tai ương (病符入命凶、孝服重重逢、父服有刑剋、作福免災殃, Bệnh Phù đến mạng hung, tang phục lại trùng phùng, thân phụ mang hình phạt, làm phước miễn tai ương).” Sao này chủ yếu bệnh kéo dài lâu, trong một năm hay vài tháng, kỵ thấy xe tang hoặc ăn các đồ tang lễ, nên cúng tế thì có thể giải được.
(趙州茶): tách trà của Thiền Sư Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗, 778-897). Ông xuất thân môn hạ của Nam Nhạc. Lúc còn nhỏ, ông xuất gia ở Hỗ Thông Viện (扈通院), rồi đến vùng Trì Dương (池陽), tham yết với Nam Tuyền Phổ Nguyện (南泉普願), và được khế ngộ. Về sau, ông còn đến tham bái một số danh tăng đương thời như Hoàng Bá (黃檗), Bảo Thọ (寳壽), Diêm Quan (鹽官), Giáp Sơn (夾山), v.v.; và cuối cùng thể theo lời thỉnh cầu của đồ chúng, ông đến trú tại Quan Âm Viện (觀音院), vùng Triệu Châu (趙州, thuộc Tỉnh Hà Bắc). Tại đây ông đã tuyên dương Thiền phong độc đáo trong suốt 40 năm. Thuật ngữ triệu châu trà vốn phát xuất từ câu chuyện “Khiết trà khứ (喫茶去, uống trà đi)” được ký lục lại trong khá nhiều thư tịch Thiền Tông. Tỷ dụ như trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 20 ghi như sau: “Triệu Châu vấn tân đáo: 'Tằng đáo thử gian ma ?' Đáp: 'Tằng đáo.' Sư viết: 'Khiết trà khứ.' Hựu vấn tăng, tăng viết: 'Bất tằng đáo.' Sư viết: 'Khiết trà khứ.' Hậu Viện Chủ vấn viết: 'Vi thập ma, tằng đáo dã vân khiết trà khứ, bất tằng đáo khiết trà khứ. Sư chiêu Viện Chủ, Chủ ứng nặc, sư viết: 'Khiết trà khứ.' (趙州問新到、曾到此間麼、曰曾到、師曰、喫茶去、又問僧、僧曰、不曾到、師曰、喫茶去、後院主問曰、爲甚麼、曾到也云喫茶去、不曾到也云喫茶去、師召院主、主應喏、師曰、喫茶去, Triệu Châu hỏi người mới đến rằng: 'Đã từng đến đây chưa ?' Đáp: 'Đã từng đến.' Sư bảo: 'Uống trà đi !' Lại hỏi vị tăng khác, người ấy trả lời: 'Chưa từng đến.' Sư bảo: 'Uống trà đi !' Về sau, thầy Viện Chủ mới hỏi rằng: 'Người đã từng đến ngài cũng bảo là uống trà đi, người chưa từng đến ngài cũng bảo là uống trà đi, vậy là thế nào ?' [Khi ấy] sư gọi thầy Viện Chủ, thầy đáp: 'Dạ.' Sư bảo: 'Uống trà đi !').” “Khiết trà khứ” đã trở thành một công án Thiền đặc sắc, được tìm thấy trong khá nhiều ngữ lục Thiền; cũng như trong điển tịch trên, Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭, 947-1024) có làm bài tụng về công án đó là: “Triệu Châu hữu ngữ khiết trà khứ, thiên hạ nạp tăng tổng đáo lai, bất thị thạch kiều nguyên để hoạt, hoán tha đa thiểu nạp tăng hồi (趙州有語喫茶去、天下衲僧總到來、不是石橋元底滑、喚他多少衲僧回, Triệu Châu có câu uống trà đi, thiên hạ chúng tăng thảy đến đây, chẳng phải cầu đá nguyên bóng mượt, cuối cùng nhiều ít có kẻ về).” Trong Ngũ Đăng Toàn Thư (五燈全書, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 82, No. 1571) quyển 97, phần Ích Châu Tung Sơn Dã Trúc Phước Tuệ Thiền Sư (益州嵩山野竹福慧禪師), có câu: “Trượng thượng vô tiền cô tự tửu, thả khuynh nhất oản Triệu Châu Trà (杖上無錢沽白酒、且傾一碗趙州茶, trên gậy không tiền mua tự uống, còn nốc một chén Triệu Châu Trà).” Cũng trong thư tịch trên, quyển 98 lại có câu: “Khiết tận Triệu Châu Trà, thiêu khước Huệ Lâm Phật (吃盡趙州茶、燒卻慧林佛, uống sạch Triệu Châu Trà, đốt tiêu Huệ Lâm Phật).” Trong nghi Cúng Chung Thất Trai Tuần cho chư vị cao tăng viên tịch, cũng có câu kệ liên quan đến Triệu Châu Trà: “Sơ hiến Triệu Châu Trà, phanh lai thật hinh hoa, tấn hiến Giác linh tòa, tảo vãng pháp vương gia (初獻趙州茶、烹來寔馨花、進獻覺靈座、早往法王家, mới cúng Triệu Châu Trà, nấu sôi thật thơm tho, dâng cúng Giác linh ngự, sớm lên pháp vương nhà).”
(s: catvāri mahābhūtāni, p: cattāri mahābhūtāni, 四大): bốn yếu tố lớn hình thành nên vật chất, gồm:
(1) Địa Đại (地大, đất), bản chất của nó cứng rắn, có tác dụng bảo trì.
(2) Thủy Đại (水大, nước), bản chất ẩm ướt, có tác dụng thâu nhiếp, tập trung.
(3) Hỏa Đại (火大, lửa), bản chất ấm nóng, có tác dụng thành thục.
(4) Phong Đại (風大, gió), bản chất động, có tác dụng sinh trưởng.
Khi 4 yếu tố này hợp lại thì có thể hình thành nên vạn vật, và khi chúng tan biến thì vạn vật cũng theo đó mà tiêu diệt; cho nên, không có người sáng tạo ra vạn vật, mà cũng chẳng có vạn vật nào được sáng tạo cả; vì vậy, trong Phật Giáo vẫn thường dùng từ “Tứ Đại giai không (四大皆空, bốn đại đều không thật có).” Trong bài thơ Tâm Chi Sanh Hề (心之生兮) của Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士, 1230-1291) có câu: “Sanh tự vọng sanh tử vọng tử, Tứ Đại bổn không tùng hà khởi (生自妄生死妄死、四大本空從何起, sanh tự lầm sanh chết lầm chết, Bốn Đại vốn không từ đâu khởi ?).” Hay trong bài Phóng Cuồng Ngâm (放狂吟) của cùng tác giả trên, lại có câu: “Phóng Tứ Đại hề mạc bả tróc, liễu nhất sanh hề hưu bôn mang (放四大兮莫把捉、了一生兮休奔忙, buông Bốn Đại chừ chớ nắm bắt, tỉnh một đời chừ thôi bôn ba).” Trong bài Cái Văn cung tiến Giác linh cũng có câu: “Cái văn: vô thường thị thường, Thế Tôn thượng Song Lâm diệt độ, tịch diệt phi diệt, Đạt Ma tằng chích lý Tây quy, sanh tự hà lai, tử tùng hà khứ. Cung duy mỗ Hòa Thượng Giác linh, nhất tánh trạm nhiên, vạn duyên không tịch, thác Ngũ Ấm chi phi hữu, liễu Tứ Đại chi bổn không, thuận thế vô thường, yếm quy chơn giới, thâu Đàm Hoa ư thử độ, thục thiện quả ư Kỳ Viên, nguyện bằng nhất lũ chi hương vân, dụng trợ Tam Thừa chi giác lộ (蓋聞、無常是常、世尊尚雙林滅度、寂滅非滅、達磨曾隻履西歸、生自何來、死從何去、恭惟某和尚覺靈、一性湛然、萬緣空寂、托五陰之非有、了四大之本空、順世無常、奄歸眞界、收曇花於此土、熟善果於祇園、願憑一縷之眞香、用助三乘之覺路, Thường nghe: vô thường là thường, Thế Tôn còn Song Lâm diệt độ, tịch diệt chẳng diệt, Đạt Ma từng quảy dép về Tây, sanh đến từ đâu, chết đi về đâu. Cúi thưa: Giác linh Hòa Thượng …, một tánh lắng trong, vạn duyên không vắng, gởi Năm Ấm vào chẳng có, ngộ Bốn Đại chính là không, thuận lẽ vô thường, quay về chơn giới, thu Đàm Hoa ở chốn này, chín quả thiện tại Kỳ Viên, nguyện nương một nén mây hương thơm, dùng giúp Ba Thừa lên đường giác).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập