Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Chúng ta không làm gì được với quá khứ, và cũng không có khả năng nắm chắc tương lai, nhưng chúng ta có trọn quyền hành động trong hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Điều khác biệt giữa sự ngu ngốc và thiên tài là: thiên tài vẫn luôn có giới hạn còn sự ngu ngốc thì không. (The difference between stupidity and genius is that genius has its limits.)Albert Einstein
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đồng sử »»
(鶴駕): cỗ xe hạc, cỡi hạc. Có mấy nghĩa khác nhau.
(1) Căn cứ tác phẩm Liệt Tiên Truyện (列仙傳), phần Vương Tử Kiêu (王子喬) cho biết rằng xưa kia Vương Tử Kiêu, tức là Thái Tử Tấn của Chu Linh Vương (周靈王, ?-545 ttl.) thường cỡi hạc trắng đậu trên đỉnh núi của họ Câu (緱). Cho nên, về sau người ta thường gọi xa giá của Thái Tử là hạc giá. Như trong bài thơ Văn Hoa Kỷ Sự (文華紀事) của Lý Đông Dương (李東陽, 1447-1516) nhà Minh có câu: “Hạc giá tạm đình đương điện ngọ, long nhan nhất cố mãn trì xuân (鶴駕暫停當殿午、龍顏一顧滿墀春, xe hạc tạm dừng trước điện cổng, long nhan ngoảnh lại đầy thềm xuân).”
(2) Cỗ xe của tiên nhân. Như trong bài Lão Thị Bi (老氏碑) của Tiết Đạo Hành (薛道衡, 540-609) nhà Tùy có đoạn: “Luyện hình vật biểu, quyển tích phương ngoại, nghê thường hạc giá, vãng lai Tử Phủ (鍊形物表、卷跡方外、蜺裳鶴駕、往來紫府, rèn hình thành vật, cuộn dấu ngoài xa, nghê thường cỡi hạc, tới lui Tử Phủ).”
(3) Cách gọi khác của cái chết, từ giã cõi đời, cỡi hạc mà đi. Như trong bài Trịnh Thái Tử Bi Minh (鄭太子碑銘) của Lô Chiếu Lân (盧照鄰, 632-695) nhà Đường có đoạn: “Nghê tinh dương Hán, do tầm hủ cốt chi linh; hạc giá đình không, thượng yết tiên nhân chi mộ (霓旌揚漢、猶尋朽骨之靈、鶴駕停空、尚謁先人之墓, cờ tiên dương khắp, để tìm cốt mục vong linh, xe hạc dừng không, tham yết người xưa lăng mộ).” Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên Tục Lược (五燈會元續略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 80, No. 1566) quyển 4 có đoạn: “Ngọc mai phá tuyết, hồng diệp điêu sương, thích quan gia trừ đạm chi thần, nãi hạc giá tiên du chi nhật (玉梅破雪、紅葉凋霜、適官家除禫之辰、迺鶴駕仙遊之日, mai ngọc phá tuyết, lá đỏ khắc sương, đúng nhà quan tang hết lúc này, là cỡi hạc về tiên ngày ấy).” Hay trong bài Du Kim Hoa Động Thiên (遊金華洞天) của Hư Đường Hòa Thượng Ngữ Lục (虛堂和尚語錄, Taishō Vol. 47, No. 2000) quyển 7 có đoạn: “Sưu sưu nhai lựu tĩnh biên văn, đáo thử tiên phàm chỉ xích phân, hạc giá triều chơn hà nhật phản, động môn chung nhật tỏa hàn vân (颼颼崖溜靜邊聞、到此仙凡咫尺分、鶴駕朝眞何日返、洞門終日鎖寒雲, vù vù khe nước nghe lắng trầm, đến chốn tiên phàm cách mấy phân, cỡi hạc quy chơn ngày nao lại, cửa động suốt buổi ngút mây hàn).”
(六和): còn gọi là Lục Úy Lao Pháp (六慰勞法), Lục Khả Hỷ Pháp (六可憘法), Lục Hòa Kính (六和敬); chỉ cho 6 loại hòa đồng ái kính, 6 pháp môn một hành giả Phật Giáo Đại Thừa cầu đạo bồ đề, tu Phạm hạnh cần phải kính trọng, yêu thương lẫn nhau; gồm: (1) Thân Hòa Kính (身和敬): chỉ cho thân nghiệp cùng lễ lạy, v.v., thường hòa kính nhau. (2) Khẩu Hòa Kính (口和敬): chỉ cho khẩu nghiệp cùng tán tụng, v.v., thường hòa kính nhau. (3) Ý Hòa Kính (意和敬): chỉ cho ý nghiệp cùng tín tâm, v.v., thường hòa kính nhau. (4) Giới Hòa Kính (戒和敬): chỉ sự hòa kính cùng giới pháp. (5) Kiến Hòa Kính (見和敬): chỉ cho sự hòa kính cùng kiến giải của trí tuệ bậc Thánh. (6) Lợi Hòa Kính (利和敬): chỉ cho sự hòa kính cùng lợi ích về y phục, thức ăn, v.v. Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) quyển 12 còn nêu ra 6 loại hòa kính khác như: (1) Thân Nghiệp Đồng (身業同); (2) Khẩu Nghiệp Đồng (口業同); (3) Ý Nghiệp Đồng (意業同); (4) Đồng Giới (同戒); (5) Đồng Thí (同施); (6) Đồng Kiến (同見). Bên cạnh đó, Tổ Đình Sự Uyển (祖庭事苑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1261) quyển 5 lại nêu ra Lục Hòa là: (1) Thân Hòa Cọng Trú (身和共住, thân hòa hợp cùng sống với nhau); (2) Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍, miệng hòa hợp không tranh cãi nhau); (3) Ý Hòa Đồng Sự (意和同事, ý hòa hợp cùng nhau làm việc); (4) Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修, giới hòa hợp cùng nhau tu tập); (5) Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解, hiểu biết hòa hợp cùng nhau chia xẻ); (6) Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均, lợi ích hòa hợp cùng nhau chia đều). Ngoài ra Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn (法界次第初門, Taishō Vol. 46, No. 1925) quyển Hạ cũng liệt kê 6 pháp hòa kính là: (1) Đồng Giới Hòa Kính (同戒和敬); (2) Đồng Kiến Hòa Kính (同見和敬); (3) Đồng Hạnh Hòa Kính (同行和敬); (4) Thân Từ Hòa Kính (身慈和敬); (5) Khẩu Từ Hòa Kính (口慈和敬); và (6) Ý Từ Hòa Kính (意慈和敬). Trong Hoa Nghiêm Cương Yếu (華嚴綱要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 8, No. 240 q.18) quyển 18 có đoạn: “Phục thứ tất năng xưng tán nhất thiết đại nguyện, thị cố năng linh Phật chủng bất đoạn, phân biệt diễn thuyết nhân duyên chi môn, thị cố năng linh Pháp chủng bất đoạn, thường cần tu Lục Hòa Kính Pháp, thị cố năng linh Tăng chủng bất đoạn (復次悉能稱讚一切大願、是故能令佛種不斷、分別演說因緣之門、是故能令法種不斷、常勤修習六和敬法、是故能令僧種不斷, tiếp theo tất có thể xưng tán hết thảy đại nguyện, cho nên có thể khiến cho hạt giống Phật không dứt đoạn; phân biệt diễn thuyết cửa nhân duyên, cho nên có thể khiến cho hạt giống Pháp không dứt đoạn; thường siêng năng tu sáu pháp hòa kính, cho nên có thể khiến cho hạt giống Tăng không dứt đoạn).” Hay trong Viên Giác Kinh Đạo Tràng Tu Chứng Nghi (圓覺經道塲修證儀, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1475) quyển 15, phần (至心發願), cũng có đoạn: “Nguyện ngã thường đắc hiến tối hậu cúng, ư chúng tăng trung, tu Lục Hòa Kính, đắc tự tại lực, hưng long Tam Bảo (願我常得獻最後供、於眾僧中、修六和敬、得自在力、興隆三寶, nguyện cho con thường được dâng hiến món cúng dường cuối cùng, trong chúng tăng tu Sáu Pháp Hòa Kính, được năng lực tự tại, hưng thịnh Tam Bảo).”
(獅吼): hay sư tử hống (獅子吼), là tiếng rống của con sư tử, tỷ dụ cho sự thuyết pháp của đức Phật hùng dũng như tiếng gầm của chúa tể sơn lâm làm chấn động cả vũ trụ, càn khôn. Như Thắng Man Kinh (s: Śrīmālā-siṁha-nāda-sūtra, 勝鬘經) còn có tên gọi khác là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Kinh (勝鬘師子吼一乘大方便經), Sư Tử Hống Kinh (師子吼 經), Thắng Man Sư Tử Hống Kinh (勝鬘師子吼經), Sư Tử Hống Phương Quảng Kinh (師子吼方廣經), Thắng Man Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘大方便方廣經), v.v. Trong Duy Ma Cật Kinh (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩詰經), Phẩm Phật Quốc (佛國品) có đoạn: “Sư tử hống vô úy âm dã, phàm sở ngôn thuyết bất úy quần tà dị học, dụ sư tử hống chúng thú hạ chi (獅子吼無畏音也、凡所言說不畏群邪異學、諭獅子吼眾獸下之, tiếng rống của con sư tử là âm thanh không sợ hãi, phàm giáo thuyết của ngài nói ra đều không sợ giáo học khác của chúng tà đạo, giống như tiếng rống của con sư tử làm cho các loài thú đều phải thần phục).” Ngoài ra, sư tử hống còn được dùng để ví cho âm thanh chửi mắng người khác của người vợ hung dữ. Trong dân gian vẫn thường dùng từ “Hà Đông Sư Hống (河東獅吼, tiếng rống của con sư tử Hà Đông)”, vốn phát xuất từ trong Dung Trai Tùy Bút (容齋隨筆) quyển 3, phần Trần Quý Thường (陳季常) của Hồng Mại (洪邁, 1123-1202) nhà Tống. Dưới thời Bắc Tống có một văn nhân tên Trần Quý Thường, tự xưng là Long Kheo Cư Sĩ (龍丘先生), thường vui vẻ tiếp đãi khách quý, thích giao du với các kỹ nữ; tuy nhiên, vợ ông họ Liễu, là người rất hung dữ, thường hay la rầy chồng. Có hôm nọ, người bạn thân là Tô Đông Pha (蘇東坡) khiêu khích Quý Thường đi chơi xuân. Bà vợ sợ chồng mình đi chơi với hàng kỹ nữ nên không cho phép ông ra bước khỏi nhà; tuy nhiên, họ Trần bảo đảm và hứa hẹn là nếu có kỹ nữ thì sẽ chịu hình phạt thích đáng; nhờ vậy bà họ Liễu mới chấp thuận. Về sau, bà biết được chồng có ăn chơi với các kỹ nữ, nên phạt đánh đòn. Quý Thường sợ bị đánh, tha thiết cầu xin tha tội và chịu quỳ phạt bên bờ hồ. Tô Đông Pha ghé thăm, chứng kiến sự tình như vậy, cảm thấy sỉ nhục cho đấng đại trượng phu nam tử, bèn quở trách bà họ Liễu; từ đó cả hai bên bắt đầu cãi vả nhau. Cuối cùng, bà biết được sự việc Đông Pha đã dụ dỗ chồng chơi với các kỹ nữ, rồi lại còn đến can thiệp vào chuyện riêng của gia đình mình; cho nên, bà tức giận lớn tiếng đuổi ông ra khỏi nhà. Nhân sự việc này, Tô Đông Pha có làm bài thơ rằng: “Long Kheo Cư Sĩ diệc khả lân, đàm không thuyết hữu dạ bất miên, hốt văn Hà Đông sư tử hống, trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên (龍丘居士亦可憐、談空說有夜不眠、忽聞河東獅子吼、柱杖落手心茫然, Long Kheo Cư Sĩ cũng đáng thương, đàm không luận có suốt đêm trường, chợt nghe Hà Đông sư tử rống, gậy chống buông tay tâm hoảng liền).” Bà họ Liễu vốn người Hà Đông (河東), cho nên Hà Đông sư tử (河東獅子) được dùng để ví cho bà. Về sau, Uông Đình Nột (汪廷訥) nhà Minh soạn tác phẩm Sư Hống Ký (獅吼記) cũng dựa trên bài thơ của Tô Đông Pha. Câu “cách phàm thành Thánh, tốc đăng sư hống chi lâm (革凡成聖、速登獅吼之林)” có nghĩa là khi đã chuyển hóa phàm tâm thành bậc Thánh thì sẽ mau chóng được lên khu rừng có tiếng rống thuyết pháp của sư tử.
(坦腹): để lộ bụng ra thấy rốn, nằm phơi bụng. Trong Thế Thuyết Tân Ngữ (世說新語), phần Nhã Lượng (雅量) của Lưu Nghĩa Khánh (劉義慶, 403-444) nhà Tống thời Nam Triều có đoạn: “Khích Thái Phó tại kinh khẩu, khiển môn sinh dữ Vương Thừa Tướng thư, cầu nữ tế. Thừa Tướng ngữ Khích Tín: 'Quân vãng đông sương, nhậm ý tuyển chi.' Môn sinh quy bạch Khích viết: 'Vương gia chư lang giai khả hỷ.' Văn lai mích tế, hàm tự căng trì, duy hữu nhất lang tại đông sàng thượng thản phục ngọa, như bất văn. Khích công vân: 'Chánh thử hảo.' Phỏng chi, nãi thị dật thiểu, nhân giá nữ dữ yên (郄太傅在京口、遣門生與王丞相書、求女壻。丞相語郄信:君徃東廂、任意選之。門生歸白郄曰:王家諸郎亦皆可嘉。聞來覓壻、咸自矜持、唯有一郎在東牀上坦腹臥、如不聞。郄公雲:正此好、訪之、乃是逸少、因嫁女與焉, khi Khích Thái Phó đang ở kinh đô, sai môn sinh đem thư đến cho Vương Thừa Tướng cầu kén rễ. Thừa Tướng bảo Khích Tín rằng: 'Ngươi cứ qua bên nhà đông, tùy ý chọn lựa.' Môn sinh trở về thưa lại với Khích Thái Phó rằng: 'Các chàng trai của vương gia đều có thể vui mừng thuận theo.' Nghe vậy, ông bèn đến xem mặt chàng rễ, ai ai cũng háo hức chờ đợi, duy chỉ có một chàng nằm phơi bụng thản nhiên trên giường phía đông, như thể chẳng nghe thấy gì cả. Khích Thái Phó bảo: 'Quả đúng người này rồi !' Hỏi ra mới biết chàng ta là người sống ít ham muốn, do đó ông gả con gái cho anh ta).” Từ đó, xuất hiện từ “đông sàng thản phục (東牀坦腹)” hay “thản phục đông sàng (坦腹東牀)”, được dùng dể chỉ cho người chồng của con gái mình, tức chú rễ. Như trong Tùy Đường Diễn Nghĩa (隋唐演義) hồi thứ 6 của Trử Nhân Hoạch (褚人獲, ?-?) nhà Thanh, có đoạn rằng: “Ngã thị Lý phủ trung tiểu thư đích bảo mẫu, nhân lão da, phu nhân yếu sính công tử đông sàng thản phục, đản ngã gia tiểu thư … thệ nguyện giá nhất cá thiện võ năng văn, túc trí đa mưu đích kỳ nam tử (我是李府中小姐的保母、因老爺、夫人要聘公子東牀坦腹、但我家小姐…誓願嫁一個善武能文、足智多謀的奇男子, tôi là bảo mẫu của tiểu thư trong phủ họ Lý; nhân lão gia và phu nhân cần kén chàng rễ công tử, nhưng tiểu thư nhà tôi … lại thề nguyện lấy một chàng trai đặc biệt khéo võ nghệ, giỏi văn chương, túc trí đa mưu).”
(四序): tức bốn mùa Xuân, Hạ, Thu và Đông. Như trong bài thơ Đăng Nam Thần Quang Tự Tháp Viện (登南神光寺塔院) của Hàn Ốc (韓偓, 844-923) nhà Đương có câu: “Tứ Tự hữu hoa trường kiến vũ, nhất Đông vô tuyết khước văn lôi (四序有花長見雨、一冬無雪卻聞雷, bốn mùa có hoa mưa lâu gặp, Đông về chẳng tuyết lại sấm vang).” Hay như trong Thập Môn Biện Hoặc Luận (十門辯惑論, Taishō No. 2111) quyển Trung, có đoạn: “Phù Nhị Nghi phú tải, Tứ Tự sanh thành, Hạ khí trường luy, Lũng mạch dĩ chi tiều tụy; Thu phong thê khẩn, nham quế dĩ chi phương phi; Xuân nhật trì trì, vị khả sử cúc hoa vinh diệu; Đông sương lẫm lẫm, cự năng khiển tùng trinh diêu lạc (夫二儀覆載、四序生成、夏氣長羸、隴麥以之憔悴、秋風凄緊、巖桂以之芳菲、春日遲遲、未可使菊華榮曜、冬霜凜凜、詎能遣松貞搖落, phàm trời đất che chở, bốn mùa sinh thành; khí Hè yếu lâu, lúa Lũng theo đó tiều tụy; gió Thu thê thảm, quế núi nhờ vậy tốt tươi; ngày Xuân chầm chậm, chưa đủ khiến hoa cúc vươn mạnh; sương Đông buốt giá, sao lại khiến hoa tùng rơi rụng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập