Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Đôi khi ta e ngại về cái giá phải trả để hoàn thiện bản thân, nhưng không biết rằng cái giá của sự không hoàn thiện lại còn đắt hơn!Sưu tầm
Thật không dễ dàng để tìm được hạnh phúc trong chính bản thân ta, nhưng truy tìm hạnh phúc ở bất kỳ nơi nào khác lại là điều không thể. (It is not easy to find happiness in ourselves, and it is not possible to find it elsewhere.)Agnes Repplier
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đồng sấn »»
(桃園結義): còn gọi là Đào Viên Tam Kết Nghĩa (桃園三結義), Đào Viên Minh (桃園盟), là thuật ngữ xuất xứ từ Tam Quốc Diễn Nghĩa (三國演義), nói lên câu chuyện kết nghĩa huynh đệ của ba nhân vật Lưu Bị (劉僃, 161-223), Quan Vũ (關羽, ?-219) và Trương Phi (張飛, ?-221) trong vườn đào của Trương Phi. Như trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, hồi thứ 15 có câu: “Ngô tam nhân Đào Viên kết nghĩa, bất cầu đồng sanh, đản nguyện đồng tử (吾三人桃園結義、不求同生、但願同死, chúng ta ba người kết nghĩa vườn đào, chẳng mong sinh cùng, chỉ nguyện chết cùng).”
(金經): kinh điển vàng ngọc. Kinh (s: sūtra, p: sutta, 經), âm dịch là Tu Đa La (修多羅), ý dịch là Khế Kinh (契經), Chánh Kinh (正經), Quán Kinh (貫經); là từ gọi chung cho tất cả Phật pháp, hay chỉ cho một loại trong 9 hoặc 12 phần giáo. Từ này còn dùng để chỉ cho các kinh điển của Đạo Giáo. Như trong bài thơ Thù Điền Dật Nhân Du Nham Kiến Tầm Bất Ngộ (酬田逸人遊岩見尋不遇) của thi nhân Trần Tử Ngang (陳子昂, 661-702) nhà Đường có câu: “Thạch tủy không doanh ác, kim kinh bí bất văn (石髓空盈握、金經祕不聞, nhũ đá rỗng nắm trọn, kinh vàng linh chẳng nghe).” Hay trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 26, bài thơ Đề Sư Tử Am (題獅子菴), có đoạn: “Sát can cao thụ thạch khê đông, bán yểm tùng vân thúy sắc nồng, nhật ngọ kim kinh phương bãi độc, nhất thanh sư hống bạch vân trung (剎竿高豎石溪東、半掩松雲翠色濃、日午金經方讀罷、一聲獅吼白雲中, đầu sào cao vút khe đá đông, xanh biếc sắc màu che mây tùng, quá trưa kinh vàng vừa đọc hết, tiếng gầm sư tử mây trắng trong).” Hoặc trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) lại có câu: “Quá khứ hiện tại cập vị lai, nhất thiết hữu tình Tam Giới biến, ngã kim thích huyết tả kim kinh, cúng phụng từ vương khất thùy giám, phù đồ thất cấp tánh trung quang, Di Đà nhất cú tâm đầu niệm, đồng sanh Cực Lạc ly khổ luân (過去現在及未來、一切有情三界遍、我今刺血寫金經、供奉慈王乞垂鑒、浮圖七級性中光、彌陀一句心頭念、同生極樂離苦輪, quá khứ hiện tại và tương lai, hết thảy hữu tình Ba Cõi khắp, con nay chích máu viết kinh vàng, dâng cúng đức từ xin chứng giám, bảy tầng tháp báu hiện hào quang, Di Đà mọtt câu trong tâm niệm, cùng sanh Cực Lạc thoát luân hồi).”
(丱歲): thưở bé, tuổi nhỏ. Quán (丱) có nghĩa là bện tóc làm hai múi hai bên, nên quán tuế (丱歲) là tuổi bện tóc thành hai múi, tuổi để tóc chỏm. Như vậy, tuổi đồng sấn (童齔) còn trẻ nhỏ hơn quán tuế vài tuổi. Như trong bài Hậu Chu Minh Uy Tướng Quân Lương Công Thần Đạo Bi (後周明威將軍梁公神道碑) của thi sĩ Dương Quýnh (楊炯, 650-695) nhà Đường có câu: “Quán tuế đằng phương, thiều niên siêu ái (丱歲騰芳、髫年超靄, tuổi nhỏ hiển đạt, lớn lên siêu quần).” Trong Ngự Tuyển Ngữ Lục (御選語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1319) có đoạn rằng: “Sư, Vĩnh Gia nhân, tánh Đới thị; quán tuế xuất gia, biến thám Tam Tạng, tinh Thiên Thai Chỉ Quán viên diệu pháp môn (師、永嘉人也、姓戴氏、丱歲出家、遍探三藏、精天台止觀圓妙法門, sư người vùng Vĩnh Gia, họ là Đới; tuổi nhỏ xuất gia, tìm khắp Tam Tạng, tinh thông pháp môn mầu nhiệm tròn đầy của Thiên Thai Chỉ Quán).” Hơn nữa, trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 32 cũng có đoạn: “Trường Sa Phủ Quy Sơn Ngũ Phong Như Học Thiền Sư, Lâm Đồng Nhậm thị tử, quán tuế thất hỗ, tùng Ngũ Đài Thiên Tề trĩ phát, viên cụ ư Trừng Luật Sư (長沙府溈山五峰如學禪師、臨潼任氏子、丱歲失怙、從五臺天齊薙髮、圓具於澄律師, Thiền Sư Như Học ở Quy Sơn Ngũ Phong, Phủ Trường Sa, con nhà họ Nhậm ở Lâm Đồng, tuổi nhỏ đã mất cha, xuống tóc xuất gia với Thiên Tề ở Ngũ Đài Sơn, thọ Cụ Túc giới với Trừng Luật Sư).”
(坦腹): để lộ bụng ra thấy rốn, nằm phơi bụng. Trong Thế Thuyết Tân Ngữ (世說新語), phần Nhã Lượng (雅量) của Lưu Nghĩa Khánh (劉義慶, 403-444) nhà Tống thời Nam Triều có đoạn: “Khích Thái Phó tại kinh khẩu, khiển môn sinh dữ Vương Thừa Tướng thư, cầu nữ tế. Thừa Tướng ngữ Khích Tín: 'Quân vãng đông sương, nhậm ý tuyển chi.' Môn sinh quy bạch Khích viết: 'Vương gia chư lang giai khả hỷ.' Văn lai mích tế, hàm tự căng trì, duy hữu nhất lang tại đông sàng thượng thản phục ngọa, như bất văn. Khích công vân: 'Chánh thử hảo.' Phỏng chi, nãi thị dật thiểu, nhân giá nữ dữ yên (郄太傅在京口、遣門生與王丞相書、求女壻。丞相語郄信:君徃東廂、任意選之。門生歸白郄曰:王家諸郎亦皆可嘉。聞來覓壻、咸自矜持、唯有一郎在東牀上坦腹臥、如不聞。郄公雲:正此好、訪之、乃是逸少、因嫁女與焉, khi Khích Thái Phó đang ở kinh đô, sai môn sinh đem thư đến cho Vương Thừa Tướng cầu kén rễ. Thừa Tướng bảo Khích Tín rằng: 'Ngươi cứ qua bên nhà đông, tùy ý chọn lựa.' Môn sinh trở về thưa lại với Khích Thái Phó rằng: 'Các chàng trai của vương gia đều có thể vui mừng thuận theo.' Nghe vậy, ông bèn đến xem mặt chàng rễ, ai ai cũng háo hức chờ đợi, duy chỉ có một chàng nằm phơi bụng thản nhiên trên giường phía đông, như thể chẳng nghe thấy gì cả. Khích Thái Phó bảo: 'Quả đúng người này rồi !' Hỏi ra mới biết chàng ta là người sống ít ham muốn, do đó ông gả con gái cho anh ta).” Từ đó, xuất hiện từ “đông sàng thản phục (東牀坦腹)” hay “thản phục đông sàng (坦腹東牀)”, được dùng dể chỉ cho người chồng của con gái mình, tức chú rễ. Như trong Tùy Đường Diễn Nghĩa (隋唐演義) hồi thứ 6 của Trử Nhân Hoạch (褚人獲, ?-?) nhà Thanh, có đoạn rằng: “Ngã thị Lý phủ trung tiểu thư đích bảo mẫu, nhân lão da, phu nhân yếu sính công tử đông sàng thản phục, đản ngã gia tiểu thư … thệ nguyện giá nhất cá thiện võ năng văn, túc trí đa mưu đích kỳ nam tử (我是李府中小姐的保母、因老爺、夫人要聘公子東牀坦腹、但我家小姐…誓願嫁一個善武能文、足智多謀的奇男子, tôi là bảo mẫu của tiểu thư trong phủ họ Lý; nhân lão gia và phu nhân cần kén chàng rễ công tử, nhưng tiểu thư nhà tôi … lại thề nguyện lấy một chàng trai đặc biệt khéo võ nghệ, giỏi văn chương, túc trí đa mưu).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.65 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập