Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Đối với người không nỗ lực hoàn thiện thì trải qua một năm chỉ già thêm một tuổi mà chẳng có gì khác hơn.Sưu tầm
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Sống trong đời cũng giống như việc đi xe đạp. Để giữ được thăng bằng bạn phải luôn đi tới. (Life is like riding a bicycle. To keep your balance you must keep moving. )Albert Einstein
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Cuộc sống là một sự liên kết nhiệm mầu mà chúng ta không bao giờ có thể tìm được hạnh phúc thật sự khi chưa nhận ra mối liên kết ấy.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đông Dương Đức Huy »»

(百丈清規): còn gọi là Bách Trượng Cổ Thanh Quy (百丈古清規), Bách Trượng Tùng Lâm Thanh Quy (百丈叢林清規), do Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海, 749-814) trước tác, là thư tịch ghi rõ những quy cũ trong Thiền lâm được quy định lần đầu tiên. Nguyên bản thì bị thất lạc trong khoang thời gian hai thời đại nhà Đường và Tống, nhưng chúng ta có thể biết được nội dung của nó như thế nào qua bản tựa của Dương Ức (楊億, 973-1020), và bản Thiền Uyển Thanh Quy (禪苑清規) của Tông Trách (宗賾, ?-?) ở Trường Lô (長蘆). Hơn nữa, sau này còn có bản Thiền Môn Quy Thức (禪門規式) được thâu lục trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄) 6. Bản Bách Trượng Cổ Thanh Quy hay cổ thanh quy này khác với Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (勅修百丈清規) do Đông Dương Đức Huy (東陽德輝[煇], ?-?) nhà Nguyên tái biên theo sắc mệnh nhà vua.
(中巖圓月, Chūgan Engetsu, 1300-1375): vị Thiền Tăng của Phái Dương Kì (楊岐) và Đại Huệ (大慧), thuộc Lâm Tế Tông, người vùng Tương Mô (相模, Sagami, Kanagawa-ken [神奈川縣]), húy là Viên Nguyệt (圓月), đạo hiệu là Trung Nham (中巖, hay còn gọi là Trung Chánh Tử (中正子); thụy hiệu là Phật Chủng Huệ Tế Thiền Sư (佛種慧濟禪師); họ Thổ Ốc (土屋). Năm lên 8 tuổi, ông xuất gia ở Thọ Phước Tự (壽福寺), đến năm 13 tuổi thì thọ Cụ Túc Giới với Luật Sư Tử Sơn (梓山). Ban đầu, ông theo học Luật ở Tam Bảo Viện (三寶院), nhưng sau thì chuyển sang tu Thiền, và đã từng đến tham vấn những bậc cao túc như Khoan Thông Viên (寛通圓), Ước Ông Đức Kiệm (約翁德儉), Hiểm Nhai Xảo An (嶮崖巧安), Vân Ốc Huệ Luân (雲屋慧輪), Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日), v.v. Vào năm thứ 2 (1318) niên hiệu Văn Bảo (文保), ông đi dạo chơi ở miền Nam, đến vùng Trúc Tiền (筑前, Chikuzen, thuộc Fukuoka-ken [福岡縣]), rồi đến tham bái Tuyệt Nhai Tông Trác (絕崖宗卓) ở Vạn Thọ Tự (萬壽寺). Hơn nữa, ông còn đến bái yết những vị cao Tăng ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]) như Nghĩa Vân (義雲), Ngọc Sơn Đức Tuyền (玉山德璇), Linh Sơn Đạo Ẩn (靈山道隱), Hổ Quan Sư Luyện (虎關師錬), v.v. Vào năm thứ 2 (1325) niên hiệu Chánh Trung (正中), ông sang nhà Nguyên cầu pháp, rồi sau khi đến tham vấn những bậc lão túc như Linh Thạch Như Chi (靈石如芝), Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Long Sơn Đức Kiến (龍山德見), Tuyệt Tế Vĩnh Trung (絕際永中), v.v., ông đến học đạo với Đông Dương Đức Huy (東陽德輝), và làm Thư Ký cho vị này. Sau ông kế thừa dòng pháp của Đức Huy. Vào năm đầu (1332) niên hiệu Chánh Khánh (正慶), ông trở về nước, đến sống ở Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) để phụ giúp cho Minh Cực Sở Tuấn (明極楚俊). Đến năm thứ 2 (1339) niên hiệu Lịch Ứng (曆應), ông đến khai sơn Cát Tường Tự (吉祥寺) ở vùng Thượng Dã (上野, Ueno, thuộc Gunma-ken [群馬縣]). Tiếp theo ông đã từng sống qua ở một số chùa nổi tiếng như Vạn Thọ (萬壽), Kiến Nhân (建仁), Đẳng Trì (等持), Kiến Trường (建長), Long Trạch (龍澤), Sùng Phước (崇福). Đến cuối đời, ông lui về ẩn cư tại Long Hưng Tự (龍興寺) thuộc vùng Cận Giang (近江, Ōmi, Shiga-ken [滋賀縣]). Vào ngày mồng 8 tháng giêng năm đầu niên hiệu Vĩnh Hòa (永和), ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi. Ông được ban thụy hiệu là Phật Chủng Huệ Tế Thiền Sư. Trước tác của ông ngoài bộ Ngữ Lục ra còn có Đông Hải Nhất Âu Tập (東海一漚集).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập