Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Điểu Vũ Thiên Hoàng »»
(大慈寺, Daiji-ji): ngôi chùa con trực thuộc vào ngôi Đại Bản Sơn Vĩnh Bình Tự của Tào Động Tông, biệt xưng là Đại Từ Thiền Tự (大慈禪寺); hiệu là Đại Lương Sơn (大梁山); hiện tọa lạc tại Noda-chō (野田町), Kumamoto-shi (熊本市), Kumamoto-ken (熊本縣). Tượng thờ chính là Thích Ca Tam Tôn. Vị Tổ khai sơn chùa là Thiền sư Hàn Nghiêm Nghĩa Duẫn (寒嚴義尹). Tương truyền Thiền sư là Hoàng Tử của Hậu Điểu Vũ Thiên Hoàng (後鳥羽天皇, Gotoba Tennō) hay Thuận Đức Thiên Hoàng (順德天皇, Juntoku Tennō). Ông đã từng đến tham yết Thiền sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen), rồi sau sang nhà Tống cầu pháp tu hành, và được gọi là Pháp Hoàng Trưởng Lão (法皇長老). Vào năm 1278 (Hoằng An [弘安] nguyên niên), vị lãnh chúa vùng đất này là Tả Vệ Môn Tá Thái Minh (左衛門佐泰明) quy y theo Thiền sư, và xây dựng nên chùa này. Quy Sơn Thượng Hoàng (龜山上皇) rất mến mộ đức độ của vị Tổ khai sơn, mới ban tặng cho Tử Y, rồi liệt chùa này vào hạng chùa quan, chỉnh trang già lam; cho nên nhờ vậy chùa rất hưng thạnh. Chùa cũng đã gặp bao lần bị binh hỏa, rồi được Hòa Thượng Động Xuân Tông (洞春宗) tái kiến lại. Chùa được đời đời mấy vị lãnh chúa Gia Đằng Thanh Chánh (加藤清正, Katō Kiyomasa), Tế Xuyên Trung Lợi (細川忠利, Hosokawa Tadatoshi) quy y theo, đến khoảng niên hiệu Nguyên Lộc (元祿, 1688-1704) thì chùa trở thành Chùa Tăng Lục của vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū).
(覺法, Kakubō, 1091-1153): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Tổ đời thứ 4 của Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), Tổ của Dòng Nhân Hòa Ngự (仁和御流), húy là Giác Pháp (覺法), thông xưng là Cao Dã Ngự Thất (高野御室), Thắng Liên Hoa Tự Sư Tử Vương Cung (勝蓮華寺獅子王宮); tự là Chơn Hành (眞行), Hành Chơn (行眞); Hoàng Tử thứ 4 của Bạch Hà Thiên Hoàng (白河天皇, Shirakawa Tennō, tại vị 1072-1086). Năm 1104, ông theo xuất gia và thọ giới với anh mình là Giác Hạnh (覺行) ở Nhân Hòa Tự. Sau khi anh qua đời, ông theo học pháp với Khoan Trợ (寬助) ở Thành Tựu Viện (成就院); rồi đến năm 1109 thì thọ phép Quán Đảnh ở Quan Âm Viện (觀音院) và trở thành Nhất Thân A Xà Lê (一身阿闍梨). Năm sau, ông nhận Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Phạm Tuấn (範俊); đến năm 1125, ông nhậm chức Kiểm Hiệu của Nhân Hòa Tự; năm 1130 thì làm Đại A Xà Lê cho lễ cúng dường của Pháp Kim Cang Viện (法金剛院), và năm 1137 thì làm Chứng Minh Đạo Sư cho buổi lễ khánh thành An Lạc Thọ Viện (安樂壽院). Đến năm 1139, ông biến Quan Âm Viện thành ngôi chùa phát nguyện của triều đình và được phép tiến hành Quán Đảnh Hội tại đây. Năm 1141, ông truyền trao giới pháp cho Điểu Vũ Thiên Hoàng (鳥羽天皇, Toba Tennō, tại vị 1107-1123) tại Giới Đàn Viện (戒壇院) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji). Năm 1144, ông tu Khổng Tước Kinh Pháp (孔雀經法) để cầu nguyện cho cận vệ của Thiên Hoàng được lành bệnh. Ông rất giỏi về sự tướng, và khai sáng Dòng Nhân Hòa Ngự. Đệ tử phú pháp của ông có Giác Thành (覺成), Giác Tánh (覺性), Kiêm Trợ (兼助), Thánh Huệ (聖惠), v.v.
(後白河天皇, Goshirakawa Tennō, tại vị 1155-1158): vị Thiên Hoàng trị vì vào cuối thời Bình An, hoàng tử thứ 4 của Điểu Vũ Thiên Hoàng (鳥羽天皇, Toba Tennō, tại vị 1107-1123), tên là Nhã Nhân (雅仁, Masahito). Một năm sau khi ông tức vị thì nảy sinh vụ loạn Bảo Nguyên (保元). Sau khi nhường ngôi vị lại cho Nhị Điều Thiên Hoàng (二條天皇, Nijō Tennō, tại vị 1158-1165), ông làm Nhiếp Chính trong suốt 34 năm với 5 đời vua. Vào năm 1169 (niên hiệu Hỷ Ứng [喜應] nguyên niên), ông làm Pháp Hoàng, chuyên tâm xây chùa, tạo tượng Phật và soạn bộ Lương Trần Bí Sao (梁塵秘抄).
(土御門天皇, Tsuchimikado Tennō, tại vị 1198-1210): vị Thiên Hoàng sống vào đầu thời Liêm Thương, Hoàng Tử thứ nhất của Hậu Điểu Vũ Thiên Hoàng (後鳥羽天皇, Gotoba Tennō), tên là Vi Nhân (爲仁, Tamehito), còn gọi là Thổ Tá Viện (土佐院), A Ba Viện (阿波院). Sau vụ loạn Thừa Cửu (承久), tự ông đến tiểu quốc Thổ Tá (土佐, Tosa) và A Ba (阿波, Awa).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập