Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Đừng chờ đợi những hoàn cảnh thật tốt đẹp để làm điều tốt đẹp; hãy nỗ lực ngay trong những tình huống thông thường. (Do not wait for extraordinary circumstances to do good action; try to use ordinary situations. )Jean Paul
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cổ Lâm Thanh Mậu »»
(波吒): bức bách, chồng chất, nói lên tình trạng khổ não cao độ. Như trong bài thơ của Thập Đắc (拾得) được thâu lục trong Toàn Đường Thi (全唐詩) quyển 807, có câu: “Phanh trư hựu tể dương, khoa đạo điềm như mật, tử hậu thọ ba tra, cánh mạc xưng oan khuất, Phật ai Tam Giới tử, tổng thị thân nam nữ, khủng trầm hắc ám khanh, thị nghi thùy hóa độ, tận đăng vô thượng đạo (烹豬又宰羊、誇道甜如蜜、死後受波吒、更莫稱冤屈、佛哀三界子、總是親男女、恐沉黑暗坑、示儀垂化度、盡登無上道, nấu heo lại giết dê, khoe đạo ngọt như mật, chết rồi chịu khổ báo, thôi chớ kêu oan khiên, Phật thương con Ba Cõi, đều là nam nữ thân, sợ rớt hầm đen tối, tùy nghi thương hóa độ, thảy chứng đạo vô thượng).” Hay như trong quyển Hạ của Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Thập Di Kệ Tụng (古林清茂禪師拾遺偈頌, CBETA No. 1413) có bài Tống Huệ Thiền Nhân Hành Hóa (送惠禪人行化): “Đại sự viên thành tại đốt ta, mạc sầu đồ lộ khổ ba tra, tam thiên lí ngoại phùng tri kỷ, bút hạ năng khai ngũ diệp hoa (大事圓成在咄嗟、莫愁途路苦波吒、三千里外逢知己、筆下能開五葉花, chuyện lớn tròn thành cũng tại ta, chớ buồn đường sá khổ chi mà, ba ngàn dặm ngoại gặp tri kỷ, dưới bút nở ra năm cánh hoa).”
(別源圓旨, Betsugen Enshi, 1294-1364): vị tăng của Phái Hoằng Trí (宏智派) thuộc Tào Động Tông Nhật Bản, xuất thân vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), họ Bình (平). Ông xuất gia lúc còn nhỏ tuổi, theo học với Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) được 11 năm, liễu ngộ đại sự và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Vào năm thứ 2 (1320) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), ông sang nhà Nguyên cầu pháp, đến tham học với Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Trung Phong Minh Bổn (中峰明本), v.v., và vào năm thứ 2 (1330) niên hiệu Nguyên Đức (元德) thì trở về nước. Trong khoảng thời gian này, năm thứ 2 (1325) niên hiệu Chánh Trung (正中), ông được Trung Phong Minh Bổn ban ấn khả cho. Sau khi về nước, vào năm đầu (1342) niên hiệu Khang Vĩnh (康永), thể theo lời mời của Triêu Thương Quảng Cảnh (朝倉廣景, Asakura Hirokage), ông đến làm tổ khai sơn của Hoằng Tường Tự (弘祥寺, Kōshō-ji) ở Túc Vũ (足羽, Asuwa), Việt Tiền, và ông còn khai sáng Thiện Ứng Tự (善應寺) cũng như Cát Tường Tự (吉祥寺). Bên cạnh đó, ông còn sống qua các chùa như Chơn Như Tự (眞如寺) ở kinh đô Kyoto, Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji) theo lời thỉnh cầu của Túc Lợi Nghĩa Thuyên (足利義詮, Ashikaga Yoshiakira) vào năm thứ 3 (1364) niên hiệu Trinh Trị (貞治). Đến ngày mồng 8 tháng 10 cùng năm trên, ông thị tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời và 56 hạ lạp. Trước tác của ông có Nam Du Tập (南遊集), Đông Quy Tập (東歸集), v.v. Trung Nham Viên Nguyệt (中巖圓月) soạn bản Biệt Nguyên Hòa Thượng Tháp Minh Tinh Tự (別源和尚塔銘並序).
(孤峰覺明, Kohō Kakumyō, 1271-1361): vị tăng của Phái Pháp Đăng thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, hiệu là Cô Phong (孤峰), xuất thân Hội Tân (會津, Aizu, thuộc Fukushima-ken [福島縣]), họ Bình (平), sinh năm thứ 8 niên hiệu Văn Vĩnh (文永). Năm lên 7 tuổi, ông đã để tang mẹ, đến năm 17 tuổi ông theo xuất gia với giảng sư Lương Phạm (良範), thọ giới trên Duệ Sơn (叡山), học giáo lý Thiên Thai được 8 năm, sau đó theo hầu Pháp Đăng Quốc Sư Vô Bổn Giác Tâm (法燈國師無本覺心) ở Hưng Quốc Tự (興國寺) được 3 năm. Tiếp theo, ông đến tham học với Liễu Nhiên Pháp Minh (了然法明) ở Xuất Vũ (出羽, Dewa) và thỉnh giáo nơi Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日), Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), v.v. Đến năm đầu (1311) niên hiệu Ứng Trường (應長), ông sang nhà Nguyên, đến tham yết Trung Phong Minh Bổn (中峰明本) ở Thiên Mục Sơn (天目山). Ngoài ra ông còn tham học với các danh tăng khác như Nguyên Ông Tín (元應信), Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (斷崖了義), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), v.v. Sau khi trở về nước, ông lại đến tham vấn Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Vĩnh Quang Tự (永光寺) vùng Năng Đăng (能登, Noto), thọ bồ tát giới và khai sáng Vân Thọ Tự (雲樹寺) tại vùng Xuất Vân (出雲, Izumo). Vào đầu niên hiệu Nguyên Hoằng (元弘), Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇) mời ông đến truyền giới và ban cho hiệu là Quốc Tế Quốc Sư (國濟國師). Đến năm thứ 2 (1346) niên hiệu Trinh Hòa (貞和), ông tiến hành tái kiến Hưng Quốc Tự, rồi đến sống ở Diệu Quang Tự (妙光寺), được Hậu Thôn Thượng Thiên Hoàng (後村上天皇) ban tặng cho hiệu là Tam Quang Quốc Sư (三光國師) và thể theo sắc chỉ của nhà vua ông làm tổ khai sơn Cao Thạch Đại Hùng Tự (高石大雄寺) ở vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi). Chính trong khoảng thời gian này, ông đã dâng sớ thỉnh cầu triều đình ban cho thầy ông là Oánh Sơn Thiệu Cẩn tước hiệu Thiền Sư. Vào ngày 24 tháng 5 năm thứ 16 (1361) niên hiệu Chánh Bình (正平, tức năm đầu niên hiệu Khang An [康安]), ông thị tịch, hưởng thọ 91 tuổi đời và 75 hạ lạp.
(彌天): có hai nghĩa chính. (1) Tỷ dụ ý chí cao ngất trời. Như trong bài thơ Tống Tánh Nguyên Thượng Tọa Hoàn Thanh Phố (送性原上座還青浦) của Kim Nông (金農, 1687-1764) nhà Thanh có câu: “Thành Phật mạc giáo linh vận hậu, di thiên đắc tợ Đạo An vô (成佛莫敎靈運後、彌天得似道安無, thành Phật chớ bảo thời vận hậu, ý chí ai bằng Đạo An đây).” Từ đó, Di Thiên cũng được dùng thay thế cho Thích Đạo An (道安, 312[314]-385), nhân vật trung tâm của Phật Giáo thời Đông Tấn. Như trong bài thơ Tống Trọng Chế Đông Du Kiêm Ký Trình Linh Triệt Thượng Nhân (送仲制東遊兼寄呈靈澈上人) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Kinh Châu bổn tự trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu do y nhiên (荊州本自重彌天、南朝塔廟猶依然, Kinh Châu vốn kính trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu còn y nguyên).” (2) Đầy trời, ngất trời. Như trong bức Báo Đông Hải Tương Lương Quý Nhiên Thư (報東海相梁季然書) của Ứng Cừ (應璩, 190-252) nhà Ngụy thời Tam Quốc có câu: “Đốn di thiên chi võng, thu vạn nhận chi ngư (頓彌天之網、收萬仞之魚, bủa khắp trời lưới võng, thâu vạn thước cá to).” Hay trong Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Ngữ Lục (古林清茂禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1412) quyển 5, phần Vô Lượng Thọ Phật Tượng Tán (無量壽佛像讚), có đoạn: “Chiêm lễ vô vong thập nhị thì, cố hương đoan khả dữ tâm kỳ, di thiên tướng hảo thanh lương nguyệt, ánh nhật liên khai bạch ngọc trì (瞻禮無忘十二時、故鄉端可與心期、彌天相好清涼月、映日蓮開白玉池, chiêm lễ đâu quên mười hai thời, cố hương trông ngóng tâm muôn nơi, khắp trời tướng tốt trăng trong sáng, trời tỏ sen khai ngọc trắng phơi).”
(慧嚴宗永, Egon Sōei, ?-?): người biên tập bộ Tông Môn Thống Yếu (宗門統要, Shūmontōyō, hay Tông Môn Thống Yếu Tập [宗門統要集], 10 quyển). Ông đã từng hoạt động bố giáo tại Kiến Cốc (建谿, Tỉnh Phúc Kiến). Vào năm thứ 3 (1133) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), Thống Yếu Tập được san hành, rồi hai năm sau được san hành tiếp. Vào năm thứ 6 (1179) niên hiệu Thuần Hy (淳熙) có san hành bản nhà Tống và nó là tác phẩm lớn nhất có ảnh hưởng của tập công án, nên sau này đã tạo ảnh hưởng không ít cho Liên Đăng Hội Yếu (聯燈會要). Đến thời nhà Nguyên, Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂) có biên tập bộ Tông Môn Thống Yếu Tục Tập (宗門統要續集).
(祇陀大智, Gida Daichi, 1290-1366): vị tăng của Tào Động Tông Nhật Bản, xuất thân Trường Khi (長崎, Nagasaki), Vũ Thổ Quận (宇土郡, Udo-gun), Phì Hậu (肥後, Higo), biệt danh là Tổ Kế (祖繼, tuy nhiên cũng có thuyết cho rằng đây là nhân vật khác), sinh vào năm thứ 3 (1290) niên hiệu Chánh Ứng (正應). Năm lên 7 tuổi, ông xuống tóc xuất gia với Hàn Nham Nghĩa Duẫn (寒巖義尹) ở Đại Từ Tự (大慈寺, Daiji-ji), và được thầy đặt cho tên là Tiểu Trí (小智), nhưng ông lại tự đổi thành Đại Trí (大智). Sau khi Hàn Nham qua đời, ông đến tham học với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), Thích Vận (釋運), v.v. ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), rồi lại chuyển đến làm môn hạ của Oánh Sơn Thiệu Cẩn (瑩山紹瑾) ở Đại Thừa Tự (大乘寺, Daishō-ji) vùng Gia Hạ (加賀, Kaga, thuộc Ishikawa-ken [石川縣]). Nỗ lực tu tập trong vòng 7 năm, ông lãnh hội được yếu chỉ của thầy. Đến năm thứ 4 (1311) niên hiệu Diên Khánh (延慶), ông lại đến tham yết Đông Minh Huệ Nhật (東明慧日) khi vị này ở tại Viên Giác Tự (圓覺寺, Enkaku-ji) vùng Tương Mô (相模, Sagami). Sau đó, ông sang Trung Quốc, tham học với một số vị tôn túc khác như Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Vân Ngoại Vân Tụ (雲外雲岫), Trung Phong Minh Bổn (中峰明本), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), v.v. Khi hồi hương, theo chiếu chỉ của vua Anh Tông, ông được đưa về nước bằng thuyền Trung Quốc. Nhân đó, ông làm bài kệ “vạn lý Bắc triều tuyên ngọc chiếu, Tam Sơn Đông Hải tống quy thuyền, hoàng ân chí hậu tương hà báo, nhất chú tâm hương chúc vạn niên (萬里北傳宣玉詔、三山東海送歸船、皇恩至厚將何報、一炷心香祝萬年, ngàn dặm Bắc triều tuyên chiếu ngọc, Tam Sơn Đông Hải tiễn thuyền về, ơn vua quá nặng làm sao đáp, một nén hương lòng chúc vạn năm)” để bái tạ thâm ân của nhà vua. Khi về nước, ông liền đến tham yết Oánh Sơn ngay, và cuối cùng trở thành pháp từ của Trung Phong Tố Triết (中峰素哲). Về sau, ông làm ngôi thảo am ở Làng Cát Dã (吉野郷), vùng Gia Hạ, không bao lâu thì trở thành ngôi phạm vũ với tên gọi là Sư Tử Sơn Kỳ Đà Tự (獅子山祇陀寺). Đến cuối đời, ông trở về vùng Phì Hậu (肥後, Higo, thuộc Kumamoto-ken [熊本縣]), sống tại Phụng Nghi Sơn Thánh Hộ Tự (鳳儀山聖護寺). Đến ngày mồng 10 tháng 12 năm thứ 21 (1366) niên hiệu Chánh Bình (正平, tức năm thứ 5 niên hiệu Trinh Trị [貞治]), ông thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi. Ông có để lại tác phẩm Đại Trí Thiền Sư Kệ Tụng (大智禪師偈頌) 1 quyển.
(了庵清欲, Ryōan Seiyoku, 1288-1363): vị tăng của Phái Tùng Nguyên thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Liễu Am (了庵), biệt hiệu Nam Đường (南堂), xuất thân Lâm Hải (臨海), Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang). Ông vốn là pháp từ của Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), đã từng sống qua một số chùa như Khai Phước Tự (開福寺) vùng Lật Thủy (溧水, Tỉnh Giang Tô), Bổn Giác Tự (本覺寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), Linh Nham Tự (靈巖寺) Tô Châu (蘇州). Ông được ban tặng hiệu là Từ Vân Phổ Tế Thiền Sư (慈雲普濟禪師). Vào ngày 25 tháng 8 năm thứ 23 niên hiệu Chí Chánh (至正), ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi. Ông có để lại bộ Liễu Am Hòa Thượng Ngữ Lục (了庵和尚語錄) 9 quyển. Tống Liêm (宋濂) soạn ra Hành Đạo Ký (行道記), viết về hành trạng của ông.
(月林道皎, Gatsurin Dōkō, 1293-1351): vị Thiền Tăng của Phái Dương Kì (楊岐) và Tùng Nguyên (松源) thuộc Lâm Tế Tông, húy là Diệu Hiểu (妙曉), Đạo Kiểu (道皎); đạo hiệu là Nguyệt Lâm (月林), thụy hiệu là Phổ Quang Đại Tràng Quốc Sư (普光大幢國師); hiệu là Độc Bộ Tẩu (獨歩叟), Viên Minh Tẩu (圓明叟), Phật Từ Tri Giám Đại Sư (佛慈知鑑大師); xuất thân vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, thuộc Kyoto); con của Trung Nạp Ngôn Cửu Ngã Cụ Phòng (中納言久我具房). Lúc còn tuổi thơ, ông đã theo mẹ đến Bình Truyền Tự (平泉寺) làm thị giả và học về giáo học, đến năm 16 tuổi thì xuống tóc xuất gia, làm môn đệ của Cao Phong Hiển Nhật (高峰顯日) ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji). Sau khi Thầy mình qua đời, ông đến tham bái Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超) ở Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji). Sau đó ông đã quy y cho Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇). Vào mùa xuân năm thứ 2 (1322) niên hiệu Nguyên Hanh (元亨), ông sang nhà Nguyên cầu pháp, đến tham bái Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂) và kế thừa dòng pháp của vị này. Vua Văn Tông (文宗) nhà Nguyên có ban cho ông hiệu là Phật Từ Tri Giám Đại Sư. Đến năm 1330, ông quay trở về nước. Ông nhận lời quy y cho vị Lãnh Chúa vùng Mai Tân (梅津, Umezu) là Thanh Cảnh (清景), cải đổi ngôi chùa của Thiên Thai Tông thành Trường Phước Thiền Tự (長福禪寺), và làm vị Tổ khai sơn chùa này. Đến ngày 25 tháng 2 năm thứ 2 niên hiệu Quán Ứng (觀應), ông thị tịch, hưởng thọ 59 tuổi đời và 44 hạ lạp. Ông được ban thụy hiệu là Phổ Quang Đại Tràng Quốc Sư. Bộ Nguyệt Lâm Kiểu Thiền Sư Ngữ Lục (月林皎禪師語錄), 2 quyển, hiện vẫn còn.
(七軸): bảy quyển, như trong bài kệ xưng tán Pháp Hoa Kinh có câu: “Lục vạn dư ngôn thất trục trang, vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng (六萬餘言七軸裝、無邊妙義廣含藏, hơn sáu vạn lời thành bảy quyển, vô biên nghĩa mầu rộng hàm tàng).” Hay trong Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Thập Di Kệ Tụng (古林清茂禪師拾遺偈頌, CBETA No. 1413) quyển Hạ cũng có câu: “Thất trục Liên Kinh lục vạn ngôn, Linh Sơn nhất hội thượng y nhiên, hoàng kim tự hữu hoàng kim giá, bảo sở phân minh tại mục tiền (七軸蓮經六萬言、靈山一會尚依然、黃金自有黃金價、寶所分明在目前, bảy quyển Liên Kinh sáu vạn lời, Linh Sơn nhất hội vẫn muôn đời, vàng ròng vốn có vàng ròng giá, chỗ báu rõ ràng trước mắt mình).”
(寂室元光, Jakushitsu Genkō, 1290-1367): vị Thiền Tăng của Phái Đại Giác (大覺派) thuộc Lâm Tế Tông, xuất thân vùng Cao Điền (高田), Mỹ Tác (美作, Mimasaka, thuộc Okayama-ken [岡山縣]), đạo hiệu Thiết Thuyền (鉄船), Tịch Thất (寂室), thụy hiệu Viên Ứng Thiền Sư (圓應禪師); họ là Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara). Năm lên 13 tuổi, ông xuất gia, rồi theo hầu Vô Vi Chiêu Nguyên (無爲昭元) ở Tam Thánh Tự (三聖寺) thuộc vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, Kyoto-fu [京都府]), sau đó thì thọ Cụ Túc Giới. Năm 16 tuổi, ông đi theo hầu Ước Ông Đức Kiệm (約翁德儉) ở Thiền Hưng Tự (禪興寺) thuộc vùng Tương Mô (相模, Sagami, Kanagawa-ken [神奈川縣]), đến các chùa như Kiến Nhân (建仁), Kiến Trường (建長), Nam Thiền (南禪). Vào năm thứ 2 (1320) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), ông cùng với Khả Ông Tông Nhiên (可翁宗然), Độn Am Tuấn Đẳng (鈍庵俊等) sang nhà Nguyên cầu pháp. Tại đó ông đã từng đến tham yết Tông Phong Minh Bổn (宗峰明本) ở Thiên Mục Sơn (天目山), rồi kế đến một số bậc Thiền Tăng nổi tiếng đương thời như Nguyên Tẩu Hành Đoan (元叟行端), Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), Thanh Chuyết Chánh Trừng (清拙正澄), Linh Thạch Như Chi (靈石如芝), Tuyệt Học Thế Thành (絕學世誠), Vô Kiến Tiên Đỗ (無見先覩), Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (斷崖了義), v.v., rồi sau đó trở về nước. Vào năm đầu (1334) niên hiệu Kiến Võ (建武), có người cư sĩ họ Bình ở vùng Bị Hậu (僃後, Bingo, thuộc Okayama-ken) xây dựng nên Vĩnh Đức Tự (永德寺) rồi thỉnh ông đến đây trú trì. Sau đó ông lánh xa thế tục mà sống ẩn cư suốt trong vòng 25 năm, và rồi vào năm thứ 2 (1351) niên hiệu Quán Ứng (觀應), ông lại đến sống ở Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) thuộc vùng Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), cũng như Vãng Sanh Tự (徃生寺) ở vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Đến năm đầu (1361) niên hiệu Khang Nguyên (康元), thể theo lời thỉnh cầu của vị Quốc Chủ vùng Cận Giang là Tá Tá Mộc Thị Lại (佐々木氏賴, Sasaki Ujiyori), ông đến làm Tổ khai sơn của Vĩnh Nguyên Tự (永源寺, Eigen-ji). Khi ấy tương truyền rằng đồ chúng của ông đến cầu pháp lên đến hơn 2000 người. Vào ngày mồng 1 tháng 9 năm thứ 6 niên hiệu Trinh Trị (貞治), ông thị tịch, hưởng thọ 78 tuổi đời và 63 pháp lạp. Vào năm 1395, ông được ban thụy hiệu là Viên Ứng Thiền Sư. Trước tác của ông có bộ Vĩnh Nguyên Tịch Thất Hòa Thượng Ngữ Lục (永源寂室和尚語錄) 2 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập