Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc là khi những gì bạn suy nghĩ, nói ra và thực hiện đều hòa hợp với nhau. (Happiness is when what you think, what you say, and what you do are in harmony.)Mahatma Gandhi
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đằng Nguyên Lương Phòng »»
(眞雅, Shinga, 801-879): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời đại Bình An (平安, Heian), người khai cơ Trinh Quán Tự (貞觀寺, Jōgan-ji), thụy hiệu là Pháp Quang Đại Sư (法光大師) và Trinh Quán Tự Tăng Chánh (貞觀寺僧正), em ruột của Không Hải. Ông theo hầu Không Hải, rồi đến năm 825 thì được thọ pháp Quán Đảnh và làm chức A Xà Lê. Năm 835, ông được Không Hải phó chúc cho quản lý Tàng Kinh Các của Đông Tự (東寺, Tō-ji), Chơn Ngôn Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) và Hoằng Phước Tự (弘福寺, Gūfuku-ji). Năm 847, ông được cử làm chức Biệt Đương của Đông Đại Tự, đến năm 864 thì làm Tăng Chánh và trở thành Pháp Ấn Đại Hòa Thượng (法印大和尚). Bên cạnh đó, ông còn được Thanh Hòa Thiên Hoàng (清和天皇, Seiwa Tennō) tôn kính và tín nhiệm, mặt khác ông rất thâm giao với Tướng Quân Đằng Nguyên Lương Phòng (藤原良房, Fujiwara Yoshifusa), cho nên vào năm 862, ông kiến lập Trinh Quán Tự ở kinh đô Kyoto. Đệ tử của ông có Chơn Nhiên (眞然, Shinzen), Nguyên Nhân (源仁, Gennin).
(恆寂, Kōjaku, 825-885): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào đầu thời Bình An, Tổ khai sơn Đại Giác Tự (大覺寺, Daikaku-ji), húy là Hằng Tịch (恆寂), tục danh là Hằng Trinh (恆貞), thông xưng là Đình Tử Thân Vương (亭子親王), Hoàng Tử thứ 2 của Thuần Hòa Thiên Hoàng (淳和天皇, Junna Tennō, tại vị 758-764); mẹ là Chánh Tử Nội Thân Vương (正子內親王). Vào năm 833, khi Nhân Minh Thiên Hoàng (仁明天皇, Nimmyō Tennō, tại vị 833-850) tức vị thì ông làm Hoàng Thái Tử, nhưng đến năm 842, do vụ biến loạn Thừa Hòa (承和) xảy ra do âm mưu của nhóm Đằng Nguyên Lương Phòng (藤原良房, Fujiwara-no-Yoshifusa), nên ông bị phế truất ngôi vị Hoàng Thái Tử. Sau đó, ông lui về nhan cư ở Thuần Hòa Viện (淳和院), rồi đến năm 849 thì xuất gia và thọ đại pháp của hai bộ Thai Mật với Chơn Như (眞如). Năm 876, khi mẹ ông là Hoàng Hậu Chánh Tử cải đổi ly cung Tha Nga Viện của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823) để xây dựng Đại Giác Tự, ông trở thành vị Tổ khai sơn của chùa này.
(清和天皇, Seiwa Tennō, tại vị 858-876): vị Thiên Hoàng sống vào đầu thời kỳ Bình An, Hoàng Tử thứ 4 của Văn Đức Thiên Hoàng (文德天皇, Montoku Tennō), mẹ là Đằng Nguyên Minh Tử (藤原明子), tên là Duy Nhân (惟仁, Korehito), còn gọi là Thủy Vĩ Đế (水尾帝). Khi ông lên ngôi còn nhỏ tuổi, nên ông ngoại là Đằng Nguyên Lương Phòng (藤原良房, Fujiwara-no-Yoshifusa) làm Nhiếp Chính. Ông quy y theo Phật Giáo và xuất gia năm 879 (niên hiệu Nguyên Khánh [元慶] thứ 3), với pháp húy là Tố Chơn (素眞).
(貞觀寺, Jōgan-ji): ngôi chùa hoang phế, xưa kia tọa lạc tại vùng Fukakusa (深草), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Vào năm 862 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 4), Tây Viện của Gia Tường Tự (嘉祥寺, Kajō-ji) được đặt cho hiệu là Trinh Quán Tự. Đến năm 872 (năm thứ 14 cùng niên hiệu trên), Gia Tường Tự chính thức đổi thành Trinh Quán Tự; Đằng Nguyên Lương Phòng (藤原良房, Fujiwara-no-Yoshifusa, 804-972) cho xây dựng các ngôi đường tháp tại đây, cúng dường ruộng cho chùa, thiết lập Tọa Chủ, Tăng Cang, v.v., nhưng về sau chùa dần dần hoang phế. Hiện tại có phát quật một số di tích ngói liên quan đến chùa.
(續日本後紀, Shokunihonkōki): một trong Lục Quốc Sử (六國史), 20 quyển, gọi tắt là Tục Hậu Kỷ (續後紀). Sau bộ Nhật Bản Hậu Kỷ (日本後紀), đây là bộ sử thư được viết theo dạng biên niên trong vòng 18 năm (833~850) dưới thời Nhân Minh Thiên Hoàng (仁明天皇, Nimmyō Tennō). Phụng sắc mệnh của Văn Đức Thiên Hoàng (文德天皇, Montoku Tennō), nhóm Đằng Nguyên Lương Phòng (藤原良房, Fujiwara-no-Yoshifusa), Đằng Nguyên Lương Tướng (藤原良相, Fujiwara-no-Yoshimi), Bạn Thiện Nam (伴善男, Tomo-no-Yoshio), Xuân Trừng Thiện Thằng (春澄善繩) bắt đầu biên tập bộ này vào năm 855 (niên hiệu Tề Hành [齊衡] thứ 2) và hoàn thành vào năm 869 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 11).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập