Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đàn Lâm »»
(本國寺 hay 本圀寺, Honkoku-ji): một trong 4 ngôi chùa trung tâm của Nhật Liên Tông, hiện tọa lạc tại Misasagiōiwa-chō (御陵大岩町), Yamashina-ku (山科區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); sơn hiệu là Đại Quang Sơn (大光山), được kiến lập vào năm 1253 (Kiến Trường [建長] 5). Đây là ngôi chùa do Nhật Tĩnh (日靜) lập nên nhờ sự ngoại hộ của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Năm 1263 (Hoằng Trường [弘長] 3), chùa được đổi tên thành Đại Quang Vô Lượng Sơn Bổn Quốc Độ Diệu Tự (大光無量山本國土妙寺). Vào năm 1345 (Trinh Hòa [貞和] nguyên niên), ông dời ngôi Pháp Hoa Đường do Nhật Liên Thánh Nhân lập nên ở Tùng Diệp Cốc (松葉谷), Liêm Thương, đến vùng Lục Điều Quật Xuyên (六條堀川) thuộc kinh đô Kyoto. Đến năm 1536 (Thiên Văn [天文] 5), do vì pháp nạn, chùa bị đồ chúng của Diên Lịch Tự (延曆寺) đốt cháy tan tành, nhưng 11 năm sau thì chùa lại được tái hưng như cũ, khai mở đàn lâm và tập trung học tăng về rất đông. Cái tên Hán văn Bổn Quốc Tự (本國寺) được đổi thành Bổn Quốc Tự (本圀寺) là do vị quan Trung Nạp Ngôn Thủy Hộ Quang Quốc (水戸光圀, Mito Mitsukuni) đã từng ngoại hộ đắc lực cho chùa. Và đến năm 1970 (Chiêu Hòa [昭和] 45), chùa được dời về vị trí hiện tại. Tượng thờ chính của chùa là bức đồ hình Mạn Trà La do Nhật Liên vẽ nên. Chùa hiện còn lưu giữ rất nhiều bảo vật có giá trị.
(本末制度, Honmatsu-seido, Bản Mạt Chế Độ): chế độ mang tính giai cấp phong kiến phân biệt giữa chùa chính (chùa bản sơn trung tâm) với chùa con trong hệ thống tự viện Phật Giáo. Chế độ này được quy định dưới thời Cận Đại, với tư cách là chế độ có hệ thống hẳn hòi. Mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con dưới thời Trung Đại là chế độ được sản sinh từ tính tất yếu trong nội bộ Tông phái, là chế độ Ngũ Sơn thuộc thể chế quan quyền do chính quyền Mạc Phủ Thất Đinh tác thành. Về chế độ được sản sinh từ tính tất yếu trong nội bộ Tông phái, từ đầu thời đại Thất Đinh trở đi, vị Du Hành Thượng Nhân của Thanh Tịnh Quang Tự (清淨光寺, Shōjōkō-ji) khi đi hành cước các tiểu quốc, ông đã từng cải tông các tự viện của Tông phái khác, thăng cách những am đền lên thành chùa, vè biến chúng thành những ngôi chùa con của ông. Nhật Liên Tông thì cũng giống như trường hợp Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺, Hokkekyō-ji) ở Trung Sơn (中山, Nakayama), đã lấy thư thệ nguyện gọi là Trạng Quy Phục để xác lập mối quan hệ này. Trường hợp Tịnh Độ Tông thì lập ra những trường Đàn Lâm (檀林, danrin) ở miền quê vùng Quan Đông (關東, Kantō) làm đạo tràng học vấn, và xác lập mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con thông qua việc tương thừa giữa thầy với trò. Đối với Tịnh Độ Chơn Tông, Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) hạ lệnh cho những ngôi chùa con phải thờ tượng thờ chính A Di Đà Như Lai bằng gỗ để phân biệt rõ mối quan hệ này. Vào năm 1386 (Chí Đức [至德] 3), chính quyền mạc phủ thất đinh đã ban hành Chế Độ Chùa Chính Chùa Con theo thể chế quan quyền đối với Ngũ Sơn, Thập Sát và chư sơn của Lâm Tế Tông. Nam Thiền Tự (南禪寺, Nanzen-ji) ở Kyoto được đặt hàng đầu, tiếp theo dưới đó là Thập Sát ở kinh đô, Thập Sát ở Quan Đông; rồi đặt ra nhưũng ngôi chùa trung tâm ở các tiểu quốc để tạo mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con trùng trùng như vậy. Đến thời Cận Đại, chế độ này cũng được cải biên theo mục đích tổ chức các tự viện trên cơ cấu chính trị. Cho đến tháng 7 năm 1615 (Nguyên Hòa [元和] nguyên niên), Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) đã hạ chiếu chỉ giải thích về pháp luật tự viện đối với những ngôi chùa trung tâm của các Tông phái. Nội dung của pháp luật ấy quy định việc những ngôi chùa trung tâm bản sơn của các Tông phái có đặc quyền về kinh tế cũng như chính trị kể từ thời Trung Đại trở về sau, việc chùa trung tâm bản sơn có quyền bãi miễn chức Trú Trì của chùa con, việc chùa con phải phục tùng tuyệt đối mệnh lệnh của chùa trung tâm, việc chùa trung tâm quy định nơi tu hành cũng như học tập của Tông phái và sau khi học xong thì đương sự phải có nghĩa vụ phục vụ nơi ấy một thời gian nhất định nao đó, việc chùa trung tâm có quyền hạn thăng cách giai cấp Tăng lữ, v.v. Về mặt pháp lịnh, mối quan hệ Chùa Chính Chùa Con được xác lập theo pháp luật tự viện, nhưng thực tế chế độ hóa vẫn còn hơi chậm. Vào năm 1632 (Khoan Vĩnh [寛永] 9), chính quyền Mạc Phủ ra lệnh cho những ngôi chùa trung tâm bản sơn của các Tông phái phải dâng nộp lên danh sách Chùa Chính Chùa Con của Tông phái mình, và buộc phải thi hành chế độ này. Trong lúc đó, về phía các ngôi chùa trung tâm lại lợi dụng cơ hội này để xác lập vững chắc sự chi phối các chùa con. Theo nguyên tắc, đương thời kèm theo bản danh sách Chùa Chính Chùa Con có các điều kiện xin chùa công nhận và tất nhiên các ngôi tự viện cổ xưa cũng được ban cho đặc quyền khác. Tuy nhiên, mấy năm sau khi Chế Độ Xin Chùa Công Nhận (寺請制度, Terauke-seido) ra đời, chính chùa con cũng thỉnh thoảng xảy ra việc chùa con tranh đoạt tín đồ, rồi chùa chính tranh giành chùa con; vì thế các nhà Nho học đã phê phán kịch liệt Chế Độ Chùa Chính Chùa Con này. Chính vì lẽ đó, thể theo văn bản pháp luật Chư Tông Tự Viện Pháp Độ (諸宗寺院法度), vào tháng 7 năm 1665 (Khoan Văn [寛文] 5), chính quyền Mạc Phủ đã sửa đổi lại chế độ này, nhấn mạnh rằng chùa chính không được xem thường ý hướng của chùa con để cưỡng quyền. Thế nhưng, một khi đã có được quyền hạn tối cao trong tay, những ngôi chùa chính không dễ gì để nó mất đi được; và họ đã đưa ra Luật Chùa Con để tăng cường quyền hạn của mình thêm lên. Từ đó, việc quản lý về thân phận Tăng lữ ở chùa con, quyền bổ nhiệm người trú trì tương lai của chùa, rồi quyền quản lý tài sản của chùa con, v.v., bị nắm chặt hơn trong tay của chùa chính. Thời đại qua đi, những ngôi chùa chính lại tái biên tư cách của chùa con, và càng tăng cường mạnh việc quản lý chặt chẽ các chùa con hơn trước. Cùng với việc tiến hành cho chư tăng ở chùa con đến tham bái chùa chính trong những dịp lễ Húy Kỵ Tổ sư khai sáng Tông phái, lễ hội hằng năm, hay Đại Pháp Hội, các chùa chính đã ra quy định rằng chùa con phải cúng dường đúng lượng vào những dịp này. Từ đó, nảy sinh ra việc cạnh tranh nhau xây dựng, tu sửa già lam của chùa chính. Những ngôi già lam hùng vĩ hiện còn chính là sản phẩm của Chế Độ Chùa Chính Chùa Con này. Và mãi cho đến ngày nay, chế độ này vẫn còn tồn tại.
(靈隱寺, Rinnin-ji, Reiin-ji): hiện tọa lạc tại Linh Ẩn Sơn (靈隱山), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), gọi đủ là Bắc Sơn Cảnh Đức Linh Ẩn Tự (北山景德靈隱寺). Ban đầu vị tăng Huệ Lý (慧理) dựng am tu tập và dịch kinh. Sau đó, Ngô Việt Vương (呉越王) cho xây dựng Ngũ Bách La Hán Đường (五百羅漢堂), chỉnh trang lại các đường vũ, cung thỉnh Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽) đến khai đường thuyết giáo. Dưới thời nhà Tống, chùa được liệt vào hàng thứ 2 trong Ngũ Sơn. Minh Giáo Khế Tung (明敎契嵩), Phật Hải Huệ Viễn (佛海慧遠), Phật Chiếu Đức Quang (佛照德光), Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), v.v., đã từng chấn tích giáo hóa tại đây. Hơn nữa, dưới thời Nam Tống, Đại Xuyên Phổ Tế (大川普濟) đã từng soạn bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元) tại chùa này. Đến thời nhà Thanh, chùa được đổi tên thành Vân Lâm Tự (雲林寺). Trong Sơn Môn có các thắng địa như Phi Lai Phong (飛來峰, tức Tiểu Đóa Phong [小朶峰]), Trực Chỉ Đường (直指堂), Lãnh Tuyền Đình (冷泉亭), Bắc Cao Phong (北高峰), Hô Viên Động (呼猿洞, hay Bạch Viên Động [白猿洞]), Thạch Liên Phong (石蓮峰), Hợp Giản Kiều (合澗橋), Thứu Lãnh (鷲嶺), Cửu Lý Tùng Kính (九里松徑), Hác Lôi Đình (壑雷亭), Liên Phong Đường (蓮峰堂), Chiên Đàn Lâm (栴檀林), v.v.
(義空, Gikū, khoảng giữa thế kỷ thứ 9): pháp từ của Diêm Quan Tề An (塩官齊安). Trong khoảng thời gian trị vì của vua Văn Tông (文宗, 826-840), ông được Quất Hoàng Hậu (橘皇后, vợ của Tha Nga Thiên Hoàng [嵯峨天皇, Saga Tennō]) cung thỉnh và đến Nhật vào đầu niên hiệu Thừa Hòa (承和, 834-848). Nhờ sự chỉ giáo của Không Hải (空海, Kūkai), Quất Hoàng Hậu mới biết được bên nhà Đường có Thiền Tông, bèn sai Huệ Ngạc (慧萼) cùng với sứ thần sang nhà Đường, đến tham yết Tề An, vì vậy Nghĩa Không và pháp đệ Đạo Phưởng (道昉) vâng mệnh thầy sang Nhật truyền pháp. Ban đầu, ông lưu trú tại Tây Viện của Đông Tự (東寺, Tō-ji), rồi thỉnh thoảng được thỉnh thuyết giảng Thiền yếu trong cung nội, và sau này trở thành vị tổ khai sáng ra Đàn Lâm Tự (檀林寺) ở vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro, thuộc Kyoto-fu [京都府]). Mấy năm sau ông lại quay trở về Trung Quốc. Huệ Ngạc nhờ Khế Nguyên (契元) ở Khai Nguyên Tự (開元寺) vùng Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô) soạn ra bản Nhật Bản Quốc Thủ Truyền Thiền Tông Ký (日本國首傳禪宗記) ghi lại sự tích của Nghĩa Không, cho khắc lên bia và dựng một bên cổng tam quan chùa.
(日導, Nichidō, 1724-1789): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Đạo (日導), Vinh Nhã (榮雅), Nhật Thâm (日深); thông xưng là Cương Yếu Đạo Sư (綱要導師), tự Trí Khê (智溪), hiệu Nhất Diệu Viện (一妙院), xuất thân Kumamoto-ken (熊本縣). Ông theo học trường Trung Thôn Đàn Lâm (中村檀林) ở Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), rồi phê phán chương trình học của trường có tính thiên nặng về Thiên Thai Học. Ông cùng với nhóm bạn Nhật Long (日龍), Nhật Đáo (日到), Nhật Nghĩa (日義), Nhật Phương (日芳) cùng thệ ước với nhau sẽ phục hưng giáo học tông môn. Sau đó, ông làm trú trì đời thứ 10 của Huệ Quang Tự (慧光寺) ở Giang Hộ. Vào năm 1785, ông lấy bộ Quán Tâm Bổn Tôn Sao (觀心本尊抄) của Nhật Liên làm cơ sở để viết nên bộ Tổ Thư Cương Yếu (祖書綱要). Năm sau, ông làm trú trì đời thứ 21 của Bổn Diệu Tự (本妙寺) ở Hùng Bổn (熊本, Kumamoto), Phì Hậu (肥後, Higo). Trước tác của ông có khá nhiều như Tổ Thư Cương Yếu (祖書綱要) 23 quyển, Pháp Hoa Tức Thân Thành Phật Nghĩa (法華卽身成佛義) 1 quyển, Thảo Mộc Thành Phật Ký (草木成佛記) 1 quyển, Tứ Chủng Tam Đoạn Sao (四種三段抄) 1 quyển, Tài Đoạn Cảm Thuyết (裁斷感說) 1 quyển, v.v.
(日護, Nichigo, 1580-1649): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Hộ (日護), tự Thuận Tánh (順性), hiệu Trung Chánh Viện (中正院); xuất thân vùng Kyoto, con của Thị Thôn Quang Trùng (市村光重). Năm lên 15 tuổi, ông xuất gia, rồi theo học pháp với Nhật Trùng (日重) ở Bổn Mãn Tự (本滿寺) thuộc Kyoto và Nhật Viễn (日遠) ở Phạn Cao Đàn Lâm (飯高檀林) thuộc vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]). Sau khi tham học ở các vùng Nam Đô cũng như Tỷ Duệ Sơn, ông đi tuần hóa khắp các nơi và quy tụ rất nhiều tín đồ. Năm 1629, nhờ sự hỗ trợ của nhóm Kim Xuất Xuyên Kinh Quý (今出川經季), ông khai sáng Tam Bảo Tự (三寶寺) ở vùng Minh Lang (明瀧), Sơn Thành (山城, Yamashiro). Thông qua việc sao chép Kinh Pháp Hoa cũng như tạc tượng Phật, ông đã nổ lực giáo hóa các tầng lớp đạo tục, và cuối cùng hình thành ra Học Phái Minh Lang. Về sau, ông kế thừa trú trì thứ 2 Dưỡng Châu Tự (養珠寺) ở vùng Kỷ Y (紀伊, Kii). Trước tác của ông có Minh Lang Tam Bảo Tự Pháp Độ (明瀧三寶寺法度) 1 quyển. Ngoài ra, tác phẩm của ông có tượng gỗ ngồi Thích Ca Như Lai ở Tam Bảo Tự, và 1 pho tượng Thích Ca Như Lai khác ở Thoại Quang Tự (瑞光寺), v.v.
(日輝, Nichiki, 1800-1859): học Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng cuối thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Huy (日輝), Giác Thiện (覺善); tự Nghiêu Sơn (堯山), hiệu là Ưu Đà Na Viện (優陀那院), xuất thân vùng Kim Trạch (金澤, Kanazawa, thuộc Ishikawa-ken [石川縣]). Ông xuất gia năm lên 9 tuổi, rồi đã từng đến học các trường Đàn Lâm. Ông rất ghét học phong vốn coi trọng giáo lý Thiên Thai, sau được Nhật Lâm (日臨), Nhật Trí (日智) chỉ dẫn cho, ông có chí muốn xác lập Tông phong thích hợp với thời đại, nên mới thiết lập trường tư thục trong khuôn viên Lập Tượng Tự (立像寺) ở Kim Trạch. Chính ông đã hình thành nên hệ thống giáo học của Nhật Liên Tông thời Cận Đại vốn dựa trên cơ sở Tam Học Kiêm Tu, Quán Tâm Trọng Thị và Chủ Nghĩa Nhiếp Thọ. Về sau, ông tận lực chỉ đạo đàn hậu tấn, và nuôi dưỡng những nhân vật quan trongj sau này nắm vai trò lãnh đạo giáo đoàn Nhật Liên Tông như Nhật Tát (日薩), Nhật Giám (日鑑), Nhật Tu (日修), v.v. Trước tác của ông có Nhất Niệm Tam Thiên Luận (一念三千論) 6 quyển, Bổn Tích Quy Tông Luận (本迹歸宗論) 1 quyển, Diệu Kinh Tông Nghĩa Sao (妙經宗義抄) 17 quyển, Tổ Thư Cương Yếu Chánh Nghĩa (祖書綱要正義) 2 quyển, Sung Trị Viên Toàn Tập (充治園全集) 5 quyển, v.v.
(日念, Nichinen, 1634-1707): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Niệm (日念), tự Hiếu Tồn (孝存), hiệu Giác Thành Viện (覺成院); xuất thân vùng Điểu Vũ (鳥羽), Sơn Thành (山城, Yamashiro). Ông xuất gia lúc còn nhỏ ở Đảnh Diệu Tự (頂妙寺), Kyoto; rồi sau trở thành môn hạ của Nhật Thẩm (日審). Sau đó, ông tham gia khóa học tại Trung Thôn Đàn Lâm (中村檀林) ở vùng Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]), và làm trú trì đời thứ 3 của Tịnh Tâm Tự (淨心寺) ở Giang Hộ.
(日珖, Nichikō, 1532-1598): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng giữa hai thời đại An Thổ Đào Sơn và Giang Hộ, húy là Nhật Quang (日珖); hiệu Long Vân Viện (龍雲院), Phật Tâm Viện (佛心院); xuất thân vùng Hòa Tuyền (和泉, Izumi, thuộc Osaka). Ban đầu, ông theo hầu Nhật Triêm (日沾) ở Trường Nguyên Tự (長源寺) thuộc vùng Hòa Tuyền; đến năm 17 tuổi thì đến tham học ở Viên Thành Tự (園城寺) cũng như Tỷ Duệ Sơn. Sau đó, ông đi bố giáo khắp các nơi, rồi đến năm 1568 thì sáng lập ra Diệu Quốc Tự (妙國寺), và cùng với Nhật Thuyên (日詮), Nhật Đế (日諦) thuyết giảng về 3 bộ kinh của Thiên Thai. Ông đã nuôi dưỡng khá nhiều học đồ, xây dựng cơ sở trường học Đàn Lâm dưới thời Giang Hộ. Vào năm 1579, với tư cách là thành viên đại biểu cho Nhật Liên Tông, ông có tham gia vào cuộc tranh luận Tông nghĩa ở An Thổ (安土), và bị đàn áp theo kế hoạch của Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga). Về sau, ông đến sống ở Pháp Hoa Kinh Tự (法華經寺) thuộc vùng Trung Sơn (中山, Nakayama), Hạ Tổng (下總, Shimōsa, thuộc Chiba-ken [千葉縣]) và chuyên tâm lãnh đạo giáo đoàn. Trước tác của ông có Văn Cú Vô Tư (文句無私) 25 quyển, Kỷ Hành Ký (己行記) 1 quyển, Thần Đạo Đồng Nhất Hàm Vị Sao (神道同一鹹味抄) 6 quyển, An Thổ Vấn Đáp Ký Lục (安土問答記錄) 1 quyển, v.v.
(日審, Nisshin, 1599-1666): vị Tăng của Nhật Liên Tông, sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Giang Hộ, húy là Nhật Thẩm (日審), tự Văn Gia (文嘉); hiệu Linh Thứu Viện (靈鷲院); xuất thân vùng Kyoto, con trai thứ 3 của Giang Thôn Cửu Mậu (川村久茂). Lúc lên 8 tuổi, ông theo xuất gia với Nhật Huyền (日玄) ở Huệ Quang Tự (慧光寺) thuộc Kyoto. Từ năm 17 tuổi trở đi, ông theo học các khoa học tại những trường Đàn Lâm. Đến năm 1629, ông làm trú trì đời thứ 12 của Trường Nguyên Tự (長源寺) vùng Nhược Hiệp (若狹, Wakasa, thuộc Fukui-ken [福井縣]), rồi đi bố giáo ở địa phương Cửu Châu (九州, Kyūshū) cho đến năm 1640. Năm sau, ông làm Hóa Chủ cho Lục Điều Đàn Lâm (六條檀林, tức Bổn Quốc Tự [本圀寺]); đến năm 1647 thì làm trú trì đời thứ 20 của Lập Bổn Tự (立本寺) tại kinh đô Kyoto. Ông đã từng đi khắp toàn quốc mà thuyết giáo Kinh Pháp Hoa và rất nổi tiếng với tư cách là Tăng sĩ bố giáo thời Cận Đại. Trước tác của ông có Pháp Hoa Khẩu Diễn Sao (法華口演抄) 4 quyển, Pháp Hoa Tọa Đàm Nghĩa (法華坐談義) 1 quyển, Viên Đốn Giả Giảng Thảo (圓頓者講草) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập