Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Tôn giáo không có nghĩa là giới điều, đền miếu, tu viện hay các dấu hiệu bên ngoài, vì đó chỉ là các yếu tố hỗ trợ trong việc điều phục tâm. Khi tâm được điều phục, mỗi người mới thực sự là một hành giả tôn giáo.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu chúng ta luôn giúp đỡ lẫn nhau, sẽ không ai còn cần đến vận may. (If we always helped one another, no one would need luck.)Sophocles
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đàn Độ »»
(荷澤神會, Kataku Jinne, 684-760): vị Thiền tăng sống dưới thời nhà Đường, vị tổ khai sáng Hà Trạch Tông (荷澤宗) Trung Quốc, người vùng Tương Dương (襄陽, Hồ Bắc), họ Cao (高). Lúc nhỏ ông học Ngũ Kinh, Lão Trang, các sử thư, sau theo xuất gia với Cảnh Nguyên ở Quốc Xương Tự (國昌寺), đọc tụng thuộc các kinh điển rất dễ dàng. Năm lên 13 tuổi, ông đến tham yết Huệ Năng (慧能). Sau khi Huệ Năng qua đời ông đi tham học khắp các nơi. Vào năm thứ 8 (720) niên hiệu Khai Nguyên (開元), ông vâng chiếu đến trú trì Long Hưng Tự (龍興寺) ở Nam Dương (南陽) và cử xướng Thiền pháp rộng rãi tại đây, cho nên người đời thường gọi ông là Nam Dương Hòa Thượng (南陽和尚). Sau khi Lục Tổ qua đời trong vòng 20 năm, giáo pháp của ông bị suy tàn dần dần, cả hai kinh đều tôn sùng Thần Tú (神秀) mà thôi. Lần đầu tiên khi đến Lạc Dương (洛陽), ông đã có ý muốn chấn hưng Thiền phong của Lục Tổ, cho nên vào năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên, ông thiết lập đại hội ở Đại Vân Tự (大雲寺) thuộc Hoạt Đài (滑臺), Hà Nam (河南), cùng luận tranh với Sùng Viễn (崇遠) ở Sơn Đông (山東). Kế đến vào năm thứ 4 (745) niên hiệu Thiên Bảo (天寳), ông viết cuốn Hiển Tông Ký (顯宗記), quy định ra 2 tông phái đốn và tiệm của Nam Bắc, lấy Huệ Năng ở phương Nam làm Đốn Tông và Thần Tú ở phía Bắc làm Tiệm Tông; cho nên từ “Nam Đốn Bắc Tiệm (南頓北漸)” vốn phát xuất từ đây. Ông tận lực công kích pháp môn của Thần Tú, vì vậy Nam Tông Thiền càng ngày trở nên hưng thạnh, trong khi đó thì Bắc Tông Thiền dần dần suy tàn. Đến năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo, nhân vụ trình tâu vu khống của vị quan Ngự Sử Lô Dịch (盧奕), ông rời khỏi Hà Trạch Tự (荷澤寺) vùng Lạc Dương, chuyển đến sống tại các địa phương như Dặc Dương (弋陽, Giang Tây), Võ Đương (武當, Hồ Bắc), v.v. Đến năm sau, ông lại chuyển đến Tương Dương, rồi Bát Nhã Viện (般若院) của Khai Nguyên Tự (開元寺) vùng Kinh Châu (荆州). Khi vụ loạn An Sử (安史) dấy khởi, cả 2 kinh đô đều rơi vào cảnh lầm than, khắp nơi có thiết lập giới đàn độ chúng tăng, tập trung tiền của để sung vào quân nhu, cho nên người ta thỉnh ông làm chủ đàn. Sau vụ loạn, vua Túc Tông mời ông vào cung nội cúng dường và cho xây dựng Thiền đường trong khuôn viên Hà Trạch Tự, thỉnh ông đến làm trú trì chùa này, cho nên người đời thường gọi ông là Hà Trạch Đại Sư (荷澤大師). Vào năm đầu (760) niên hiệu Thượng Nguyên (上元), ông thị tịch, hưởng thọ 93 tuổi. Có thuyết cho là ông mất vào năm đầu (758) niên hiệu Càn Nguyên (乾元). Ông được ban cho thụy hiệu là Chơn Tông Đại Sư (眞宗大師). Vào năm thứ 12 (796) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), Hoàng Thái Tử cho triệu tập các vị Thiền sư, quy định tông chỉ của Thiền môn, suy cử ông là vị tổ thứ 7 của Thiền Tông, sắc phong bia đặt tại Thần Long Tự (神龍寺). Tông môn của ông được gọi là Hà Trạch Tông (荷澤宗). Môn hạ ông có rất nhiều đấng anh tài như Vô Danh (無名), Pháp Như (法如), v.v.
(牛頭): tức là Ngưu Đầu Chiên Đàn (牛頭栴檀), còn gọi là Xích Chiên Đàn (赤栴檀, Chiên Đàn Đỏ). Chiên Đàn là tên của một loại gỗ thơm, vốn phát xuất từ Ngưu Đầu Sơn (牛頭山); nên có tên gọi là Ngưu Đầu Chiên Đàn. Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập (翻譯名義集, Taishō Vol. 54, No. 2131) quyển 3 cho biết rằng: “Chánh Pháp Niệm Kinh vân: 'Thử châu hữu sơn, danh viết Cao Sơn; Cao Sơn chi phong, đa hữu Ngưu Đầu Chiên Đàn; nhược chư thiên dữ Tu La chiến thời, vi đao sở thương, dĩ Ngưu Đầu Chiên Đàn, đồ chi tức dũ; dĩ thử sơn phong trạng như ngưu đầu, ư thử phong trung, sanh Chiên Đàn thọ, cố danh Ngưu Đầu.' Đại Luận vân: 'Trừ Ma Lê Sơn, vô xuất Chiên Đàn, Bạch Đàn trị nhiệt bệnh, Xích Đàn khử phong thũng' (正法念經云、此洲有山、名曰高山、高山之峰、多有牛頭旃檀、若諸天與修羅戰時、爲刀所傷、以牛頭旃檀、塗之卽愈、以此山峰狀如牛頭、於此峰中、生旃檀樹、故名牛頭、大論云、除摩梨山、無出旃檀、白檀治熱病、赤檀去風腫, Chánh Pháp Niệm Kinh dạy rằng: 'Châu này có núi, tên là Cao Sơn, trên đỉnh Cao Sơn, có nhiều Ngưu Đầu Chiên Đàn; nếu khi các trời cùng giao chiến với Tu La, bị đao làm thương tích, thì lấy Ngưu Đầu Chiên Đàn thoa vào tức lành liền; vì hình trạng đỉnh núi này giống như đầu con trâu, trong đỉnh núi lại có cây Chiên Đàn, nên có tên là Ngưu Đầu.' Đại Luận còn dạy rằng: 'Trừ Ma Lê Sơn không có Chiên Đàn, loại Bạch Đàn trị bệnh nóng sốt, loại Xích Đàn thì khử phong thũng').” Đây là loại gỗ đặc biệt có công năng trị bệnh, và bảo vệ thân thể không bị đốt cháy nếu thoa vào mình. Như Bắc Sơn Lục (北山錄, Taishō Vol. 52, No. 2113) quyển 3 giải thích rằng: “Ma La Da Sơn hữu Chiên Đàn danh Ngưu Đầu Hương, nhược dĩ đồ thân, thiết nhập hỏa khanh hỏa bất năng thiêu (摩羅耶山有栴檀名牛頭香、若以塗身、設入火坑火不能燒, núi Ma La Da có loại Chiên Đàn tên Ngưu Đầu Hương, nếu lấy thoa vào mình, giả sử có vào trong hầm lửa, lửa không thể đốt cháy được).” Hay trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 9, No. 278) quyển 50 cũng có cùng thông tin như trên: “Phục hữu hương danh Ngưu Đầu Chiên Đàn, tùng Ly Cấu Sơn vương sanh, nhược dĩ đồ thân, hỏa bất năng thiêu (復有香名牛頭栴檀、從離垢山王生、若以塗身、火不能燒, lại có loại hương tên là Ngưu Đầu Chiên Đàn, từ vua Ly Cấu Sơn sanh ra, nếu lấy thoa vào mình, lửa không thể đốt cháy được).” Hoặc như trong Tuyển Tập Bách Duyên Kinh (撰集百緣經, Taishō Vol. 4, No. 200) quyển 3 có đoạn: “Kỳ nhân thân thể, sanh chư ác sang, thậm hoạn khổ não, thống bất khả ngôn, hoán chư lương y, dĩ chiêm liệu trị, vân tu Ngưu Đầu Chiên Đàn, dụng đồ sang thượng, khả đắc trừ dũ (其人身體、生諸惡瘡、甚患苦惱、痛不可言、喚諸良醫、以瞻療治、云須牛頭栴檀、用塗瘡上、可得除愈, người ấy thân thể, mọc các mụn nhọt dữ, lo âu khổ não, đau không tả xiết, bảo các lương y, xem xét trị liệu; họ bảo rằng nên lấy Ngưu Đầu Chiên Đàn đem thoa trên mụn nhọt ấy, có thể hết đau).” Trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 10 có ghi lại rằng: “Quốc Nam tân hải hữu Mạt Lạt Da Sơn, sùng nhai tuấn lãnh, động cốc thâm giản, kỳ trung tắc hữu Bạch Đàn Hương thọ, Chiên Đàn Nễ Ba thọ, thọ loại Bạch Đàn, bất khả dĩ biệt, duy ư thạnh Hạ, đăng cao viễn chiêm, kỳ hữu đại xà oanh chi giả, ư thị tri chi, do kỳ mộc tánh lương lãnh, cố xà bàn dã; ký vọng kiến dĩ, xạ tiễn vi ký, Đông Trập chi hậu, phương nãi thái phạt (國南濱海有秣剌耶山、崇崖峻嶺、洞谷深澗、其中則有白檀香樹、栴檀你婆樹、樹類白檀、不可以別、唯於盛夏、登高遠瞻、其有大蛇縈者、於是知之、猶其木性涼冷、故蛇盤也、旣望見已、射箭爲記、冬蟄之後、方乃採伐, ven bờ biển phía Nam của nước ta có núi Mạt Lạt Da, vách núi dựng đứng, đỉnh núi cao vút, hang động sâu thẳm, trong đó ắt có cây Bạch Đàn Hương, cây Chiên Đàn Nễ Ba, cây thuộc loại Bạch Đàn, không thể phân biệt được; chỉ vào giữa mùa Hạ, lên trên cao nhìn từ xa, cây nào có rắn cuốn chúng quanh, mới biết được rằng, do vì tánh cây ấy mát lạnh, nên rắn cuốn quanh; sau khi nhìn xong, bắn mũi tên để ghi dấu; sau mùa Đông Trập [ngủ đông], mới có thể hái chặt về).”
(資福): lấy phước, cầu phước. Như trong Cân Sương Thuyết (巾箱說) của Kim Thực (金埴, 1663-1740) nhà Thanh có câu: “Nhiên vãng vãng nghiệm chi, niên phong gia cấp, tương dữ các kỳ dư tài dĩ tư phước (然往往驗之、年豐家給、相與榷其餘財以資福, nhưng thường thường suy nghiệm thấy, năm được mùa, nhà nhà no đủ, bèn đánh thuế tài sản dư để cầu phước).” Hay trong Lịch Triều Thích Thị Tư Giám (歷朝釋氏資鑑, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 76, No. 1517) quyển 8 có đoạn: “Giáp Thìn tứ niên, Quán Sát Sứ Vương Trí Hưng, dĩ thượng thập nhị nguyệt sanh nhật, thỉnh ư Tứ Châu trí Giới Đàn độ tăng ni dĩ tư phước (甲辰四年、觀察使王智興、以上十二月生日、請於泗州置戒壇度僧尼以資福, vào năm Giáp Thìn [824], niên hiệu Khánh Trường thứ 4 nhà Đường, Quán Sát Sứ Vương Trí Hưng [758-836], nhân ngày sinh nhật tháng 12, thỉnh đến Tứ Châu thiết lập Giới Đàn độ tăng ni để cầu phước).”
(無任): kính ngữ, nghĩa là không chịu đựng được, khôn xiết. Xưa kia, người ta thường dùng từ này trong các Biểu Trạng, Tấu Chương, Sớ Văn, v.v. Như trong tờ Từ Châu Tạ Tưởng Dụ Biểu (徐州謝獎諭表) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống có đoạn: “Thứ đàn hủ độn, thiểu bổ ti hào, thần vô nhậm (庶殫朽鈍、少補絲毫、臣無任, hầu như hết sức hủ nát đần độn, thêm chút mảy may, thần không chịu được).” Trong các lòng văn Sớ dâng cúng thường xuất hiện cụm từ “vô nhậm kích thiết bình dinh chi chí (無任激切屛營之至, cảm kích thiết tha hãi hùng khôn xiết).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập