Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Trực giác của tâm thức là món quà tặng thiêng liêng và bộ óc duy lý là tên đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội tôn vinh tên đầy tớ và quên đi món quà tặng. (The intuitive mind is a sacred gift and the rational mind is a faithful servant. We have created a society that honor the servant and has forgotten the gift.)Albert Einstein
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Tôi biết ơn những người đã từ chối giúp đỡ tôi, vì nhờ có họ mà tôi đã tự mình làm được. (I am thankful for all of those who said NO to me. Its because of them I’m doing it myself. )Albert Einstein
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Đại Chúng Bộ »»
(s: Mahīśāsaka, p: Mahiṃsāsaka, 化地部): âm dịch là Di Sa Tắc Bộ (彌沙塞部), còn gọi là Chánh Địa Bộ (正地部), Giáo Địa Bộ (敎地部), Đại Bất Khả Khí Bộ (大不可棄部), tên gọi của một trong 20 bộ phái của Tiểu Thừa. Tương truyền sau khi đức Phật diệt độ khoảng 300 năm, bộ phái này phân ra từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (說一切有部) của hệ Thượng Tọa Bộ (上座部). Về tên gọi của bộ phái này, trong Dị Bộ Tông Luân Luận (異部宗輪論) có ghi rằng: “Người chủ của bộ phái này là quốc vương, nhà vua thống nhiếp đất nước, giáo hóa hàng thứ dân trên đất, cho nên có tên là Hóa Địa. Nhà vua bỏ ngôi vua xuất gia, rộng tuyên Phật pháp, từ đó lấy tên là Hóa Địa Bộ. Pháp sư Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) nói rằng: 'Chánh Địa Bộ vốn là thầy nhà vua, muốn chỉnh đốn đất nước, bèn bỏ ngôi vua để hoằng pháp, cho nên có tên là Chánh Địa'”. Về giáo nghĩa của Hóa Địa Bộ, Dị Bộ Tông Luân Luận chia làm hai phần là Bổn Tông Đồng Nghĩa (本宗同義) và Mạt Tông Dị Nghĩa (末宗異義); trong đó, Bổn Tông Đồng Nghĩa rất giống Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部), cho rằng không có quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại cũng như pháp vô vi. Từ đó, phái này lập ra 9 loại vô vi gồm Trạch Diệt (擇滅), Phi Trạch Diệt (非擇滅), Hư Không (虛空), Bất Động (不動), Thiện Pháp Chơn Như (善法眞如), Bất Thiện Pháp Chơn Như (不善法眞如), Vô Ký Pháp Chơn Như (無記法眞如), Đạo Chi Chơn Như (道支眞如), và Duyên Khởi Chơn Như (緣起眞如). Họ chủ trương thấy đạo nhất thời, hiện quán lý của Tứ Thánh Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-arya-sacca, 四聖諦) và cho rằng 5 thức có năng lực tạp nhiễm. Đối với chủ trương về 4 quả Sa Môn, họ cho rằng Quả Dự Lưu (s: srotāpatti-phala, p: sotāpatti-phala, 預流果) còn trở lui nữa, chỉ có Quả A La Hán (s: arhant-phala, p: arahant-phala, 阿羅漢果) thì bất thối. Trong khi đó, Mạt Tông Dị Nghĩa thì gần với học thuyết của Tát Bà Đa Bộ (s: Sarvāstivāda, 薩婆多部), chủ trương thật có quá khứ, tương lai. Từ Ân (慈恩) và Hiền Thủ (賢首) lấy chủ trương của Bổn Tông Đồng Nghĩa để lập nên Pháp Vô Khứ Lai Tông (法無去來宗), và lấy Mạt Tông Dị Nghĩa để hình thành Pháp Hữu Ngã Vô Tông (法有我無宗). Luật của Hóa Địa Bộ hành trì là Sa Di Tắc Bộ Hòa Hê Ngũ Phần Luật (彌沙塞部和醯五分律), 30 quyển.
(s: naraka-pāla, 獄卒): chỉ cho hạng lính quỷ trong Địa Ngục; còn gọi là Địa Ngục Tốt (地獄卒), Na Lạc Già Tốt (那洛迦卒). Trong cõi Địa Ngục, họ thường hiện thân hình quái dị, đáng sợ như đầu trâu, mặt ngựa, v.v., thường bức bách, la mắng tội nhân. Trong Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 16 có đoạn: “Ác La Sát, ngục tốt, tác chủng chủng hình, ngưu, mã, trư, dương, chương, lộc, hồ, cẩu, hổ, lang, sư tử, lục bác, đại điểu, điêu thứu, thuần điểu, tác thử chủng chủng chư điểu thú đầu, nhi lai thôn đạm, giảo khiết, niết xế tội nhân (惡羅剎、獄卒、作種種形、牛、馬、豬、羊、獐、鹿、狐、狗、虎、狼、師子、六駮、大鳥、鵰鷲、鶉鳥、作此種種諸鳥獸頭、而來吞噉、齩嚙、䶩掣罪人, ác La Sát, lính ngục, hiện các loại hình, trâu, ngựa, heo, dê, hươu, nai, chồn, chó, hổ, sói, sư tử, lục bác [loại như ngựa], chim lớn, kên kên, chim cút, hiện các loại đầu chim thú, mà đến nhai nuốt, cắn xé, kéo giựt tội nhân).” Về vấn đề ngục tốt có phải là hữu tình hay không, có nhiều thuyết khác nhau. Duy Thức Nhị Thập Luận Thuật Ký (唯識二十論述記, Taishō Vol. 43, No. 1834) quyển Thượng cho biết rằng trong các bộ phái, Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部), Chánh Lượng Bộ (s: Sammatīya, p: Sammitiya, 正量部) chủ trương ngục tốt thật sự là hữu tình; trong khi đó, Tát Bà Đa Bộ (s: Sarvāstivāda, 薩婆多部), Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部), v.v., lại cho là không phải. Trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 7, Thiên Lục Đạo (六道篇), Địa Ngục Bộ (地獄部), có đoạn: “Đồng trụ biến sắc vĩnh thụ pháp tràng, thiết võng cải hình phương khai Tịnh Độ, ngưu đầu trịch đao cánh thọ Tam Quy, ngục tốt khí tiên hoàn trì Ngũ Giới (銅柱變色永豎法幢、鐵網改形方開淨土、牛頭擲刃更受三歸、獄卒棄鞭還持五戒, trụ đồng đổi màu mãi dựng cờ pháp, lưới sắt thay hình mở ra Tịnh Độ, đầu trâu ném đao lại thọ Tam Quy, lính ngục bỏ roi hành trì Năm Giới).”
(s: dharmacakra, p: dhammacakka, 法輪): bánh xe pháp, tỷ dụ cho Phật pháp, có ba nghĩa chính. (1) Phá tan, vì Phật pháp có thể phá tan tội ác của chúng sanh, giống như bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương có thể nghiền nát vụn những tảng đá lớn nhỏ; nên gọi là pháp luân. (2) Quay lăn mãi, vì giáo pháp của đức Phật không dừng lại ở bất cứ một người nào hay nơi nào, giống như bánh xe lăn mãi trên đường không dừng lại, nên gọi là pháp luân. (3) Tròn đầy, vì giáo pháp của đức Phật tròn đầy, không khuyết, nên lấy sự tròn đầy của bánh xe mà thí dụ. Như trong Hoa Nghiêm Đạo Tràng Khởi Chỉ Đại Lược (華嚴道塲起止大略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1474) có đoạn: “Sơ thành chánh giác, hiện thần biến ư Bồ Đề Tràng trung, tái chuyển pháp luân, chấn viên âm ư Phổ Quang Minh Điện, biến Thất Xứ nhi hằng diễn, lịch Cửu Hội dĩ đồng tuyên, phu vạn hạnh chi nhân hoa, nghiêm Nhất Thừa chi đạo quả (初成正覺、現神變於菩提塲中、再轉法輪、震圓音於普光明殿、遍七處而恆演、歷九會以同宣、敷萬行之因華、嚴一乘之道果, mới thành chánh giác, hiện thần biến nơi Bồ Đề Đạo Tràng, tái chuyển xe pháp, chấn viên âm nơi Phổ Quang Minh Điện, khắp Bảy Chốn mà hằng diễn, trãi chín hội vốn cùng tuyên, rãi muôn hạnh ấy nhân hoa, nghiêm Nhất Thừa ấy đạo quả).” Hay trong Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 9, phần Đông Kinh Đại Tướng Quốc Tự Huệ Lâm Thiền Viện Viên Chiếu Thiền Sư (東京大相國寺慧林禪院圓照禪師), cũng có đoạn: “Tích nhật Linh Sơn thắng tập, tùy cơ đại chuyển pháp luân, kim triêu Tuyển Phật Trường khai, thùy thủ nguyện dương Phật sự (昔日靈山勝集、隨機大轉法輪、今朝選佛場開、垂手願揚佛事, xưa kia Linh Sơn tập hội, tùy cơ đại chuyển pháp luân, sáng nay Tuyển Phật Trường bày, buông tay nguyện làm Phật sự).” Pháp luân còn gọi là phạm luân (梵輪). Như trong Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 8 giải thích rằng: “Phật chuyển pháp luân, hoặc danh pháp luân, hoặc danh phạm luân (佛轉法輪、或名法輪、或名梵輪, đức Phật chuyển bánh xe pháp, hoặc gọi là pháp luân, hoặc gọi là phạm luân).” Về tự tánh của pháp luân, các bộ phái đều có những thuyết khác nhau. Trong đó, 10 bộ như Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 說一切有部), Đa Văn Bộ (s: Bāhuśrutīya, Bāhulika, p: Bahussutaka, Bāhulika, 多聞部), Kinh Lượng Bộ (s: Sautrāntika, 經量部), v.v., chủ trương lấy Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇgika-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道) làm thể của pháp luân. Còn 10 bộ khác như Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大衆部), Pháp Tạng Bộ (s: Dharmaguptaka, 法藏部), Ẩm Quang Bộ (s: Kāśyapīya, 飲光部), v.v., thì lấy ngôn từ của đức Phật làm pháp luân.
(s, p: buddha, 佛): gọi đủ là Phật Đà (佛陀、佛馱), Hưu Đồ (休屠), Phù Đà (浮陀), Phù Đồ (浮屠、浮圖), Phù Đầu (浮頭), Một Đà (沒馱), Bột Đà (勃陀、馞陀), Bộ Tha (步他); ý dịch là Giác Giả (覺者), Tri Giả (知者), Giác (覺); nghĩa là đấng giác ngộ chân lý; cũng có nghĩa là đầy đủ tự giác (自覺, tự giác ngộ mình), giác tha (覺他, làm cho người khác giác ngộ), giác hành viên mãn (覺行圓滿, giác ngộ và thực hành đều viên mãn), thấy biết như thật hết thảy tánh tướng của các pháp, là bậc Đại Thánh thành tựu Đẳng Chánh Giác. Đây là quả vị tối cao trong tu hành của Phật Giáo. Ba yếu tố tự giác, giác tha và giác hành viên mãn, đối với hạng phàm phu thì không yếu tố nào đầy đủ cả; đối với hàng Nhị Thừa Thanh Văn (s: śrāvaka, p: sāvaka, 聲聞), Duyên Giác (s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺) thì chỉ có tự giác; Bồ Tát (s: bodhisattva, p: bodhisatta, 菩薩) thì có đủ tự giác và giác tha; chỉ có Phật mới có đủ ba yếu tố này; cho nên đây là tôn xưng cao quý nhất. Về nội dung chứng ngộ của đức Phật, các kinh luận có nhiều thuyết khác nhau. Về thân Phật, cõi nước Phật, v.v., các tông phái cũng có nhiều dị thuyết. Cũng có biết bao danh xưng để tán than đức Phật như 10 danh hiệu của đức Như Lai, Nhất Thiết Tri Giả (一切知者, người biết tất cả), Nhất Thiết Kiến Giả (一切見者, người thấy tất cả), Tri Đạo Giả (知道者, người biết đạo), Khai Đạo Giả (開道者, người khai mở đạo [con đường]), Thuyết Đạo Giả (說道者, người thuyết về đạo), Thế Tôn (世尊, đấng được cuộc đời tôn kính), Thế Hùng (世雄, bậc hùng mạnh có thể đoạn trừ mọi phiền não của thế gian), Thế Nhãn (世眼, người có con mắt dẫn dắt thế gian), Thế Anh (世英, bậc ưu tú nhất thế gian), Thiên Tôn (天尊, Đệ Nhất Nghĩa Thiên tối thắng trong 5 vị trời), Đại Giác Thế Tôn (大覺世尊, hay Đại Giác Tôn), Giác Vương (覺王, vua giác ngộ), Giác Hoàng (覺皇, vua giác ngộ), Pháp Vương (法王, vua của các pháp), Đại Đạo Sư (大導師, vị thầy hướng dẫn vĩ đại), Đại Thánh Nhân (大聖人), Đại Sa Môn (大沙門), Đại Tiên (大仙, đấng tôn kính nhất trong chư tiên), Đại Y Vương (大醫王, như danh y tùy theo bệnh mà cho thuốc hay, đức Phật là người tùy theo tâm bệnh mà thuyết pháp), Phật Thiên (佛天), Phật Nhật (佛日, đức Phật như mặt trời chiếu sang khắp nơi), Lưỡng Túc Tôn (兩足尊, đấng tôn kính nhất trong loài có hai chân, lưỡng túc ở đây còn có nghĩa là đầy đủ hai yếu tố nguyện và hạnh), Nhị Túc Tôn (二足尊), Lưỡng Túc Tiên (兩足仙), Nhị Túc Tiên (二足仙), Thiên Trung Thiên (天中天, bậc tối thắng trong chư thiên), Nhân Trung Ngưu Vương (人中牛王, tỷ dụ đức Phật là vua của loài trâu), Nhân Hùng Sư Tử (人雄師子, tỷ dụ đức Phật là con sư tử hùng mạnh trong loài người), v.v. Đức Phật là người có thể hóa độ, dẫn dắt mình và người khác, nên có tên là Năng Nhân (能人); cho nên Phật A Di Đà cũng được gọi là An Lạc Năng Nhân (安樂能人). Đức Phật có những đức tính đặc thù, như thân Ngài có 32 tướng tốt, 48 vẻ đẹp; ngoài ra còn có 10 Lực, 18 pháp bất cọng, v.v. Định, Trí và Bi của Phật đều tối thắng, nên gọi là Đại Định (大定), Đại Trí (大智), Đại Bi (大悲); phối với Ba Đức là Đoạn Đức (斷德), Trí Đức (智德) và Ân Đức (恩德), gọi chung là Đại Định Trí Bi (大定智悲). Chư Phật xuất hiện trong thời quá khứ được gọi là Quá Khứ Phật (過去佛) hay Cổ Phật (古佛), như 7 vị Phật quá khứ, Phật Nhiên Đăng (s: Dīpaṃkara, 燃燈), v.v. Chư Phật sẽ xuất hiện nơi cõi Ta Bà trong tương lai thì gọi là Hậu Phật (後佛) hay Đương Lai Phật (當來佛), như Phật Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒). Ban đầu, Phật là chỉ cho đức Phật của lịch sử, tức là Phật Thích Ca; về sau sản sinh tư tưởng 7 vị Phật quá khứ, rồi lại có Phật tương lai và đức Phật Di Lặc; nay khoảng cách giữa đức Phật Thích Ca và Phật Di Lặc lại có thời gian không có Phật. Phật Giáo Nguyên Thủy thì cho rằng trong đời hiện tại không thể tồn tại cả hai vị Phật như vậy; đến thời kỳ Phật Giáo Đại Thừa, tùy thế giới quan mở rộng, cho rằng trong nhất thời có nhiều đức Phật tồn tại. Tỷ dụ như, phương Đông có Phật A Súc (s: Akṣhobhya, 阿閦), phương Tây có Phật A Di Đà (s: Amitāyus, Amitābha, 阿彌陀); đồng thời ngay hiện tại, ở thế giới phương khác lại có vô số chư Phật hiện hữu, gọi là thập phương hằng sa chư Phật (十方恒沙諸佛, chư Phật nhiều như số cát sông Hằng ở mười phương). Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部) của Phật Giáo Nguyên Thủy công nhận rằng tam thiên đại thiên thế giới đồng thời có các đức Phật khác tồn tại, nên chủ trương thuyết gọi là “nhất Phật nhất giới, đa Phật đa giới (一界一佛、多界多佛, một đức Phật một thế giới, nhiều đức Phật nhiều thế giới).” Hữu Bộ (s: Sarvāstivādin, 有部) thì chủ trương thuyết “đa giới nhất Phật (多界一佛, nhiều thế giới một đức Phật).” Chữ “giới (界)” ở đây nghĩa là tam thiên đại thiên thế giới. Ngoài ra, ba đời chư Phật tức chỉ cho ngàn vị Phật của Trang Nghiêm Kiếp (莊嚴劫) trong thời quá khứ, ngàn vị Phật của Hiền Kiếp (賢劫) trong thời hiện tại, và ngàn vị Phật của Tinh Tú Kiếp (星宿劫) trong thời tương lai; hợp lại thành ba ngàn vị Phật. Danh xưng của chư vị Phật này có trong Tam Kiếp Tam Thiên Phật Danh Kinh (三劫三千佛名經).
(s: catasraḥ parṣadaḥ, p: catasso parisā, 四眾): Bốn Chúng; còn gọi là Tứ Bối (四輩), Tứ Bộ Chúng (四部眾), Tứ Bộ Đệ Tử (四部弟子); có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho 4 hạng người, hay 4 hạng đệ tử hình thành nên giáo đoàn Phật Giáo, gồm Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), Ưu Bà Tắc (s, p: upāsaka, 優婆塞), Ưu Bà Di (s, p: upāsikā, 優婆夷). Hay chỉ cho bốn chúng xuất gia là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌) và Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼). Như trong Liễu Đường Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (了堂惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1417) quyển 2 có câu: “Nhất ngôn huýnh xuất thanh tiêu ngoại, Tứ Chúng vân trăn tiếu điểm đầu (一言迥出青霄外、四眾雲臻笑點頭, một lời buông tận trời xanh thẳm, Bốn Chúng về đây cười gật đầu).” Hay trong Cẩm Giang Thiền Đăng (錦江禪燈, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1590) quyển 19, phần Huệ Thông (慧聰), lại có đoạn: “Pháp Hoa Kinh Thường Bất Khinh Bồ Tát, bất chuyên độc tụng kinh điển, đản hành lễ bái Tứ Chúng, thượng đắc Lục Căn thanh tịnh, ngã hà vi bất lễ chư Phật Thế Tôn. (法華經常不輕菩薩、不專讀誦經典、但行禮拜四眾、尚得六根清淨、我何爲不禮諸佛世尊, Bồ Tát Thường Bất Khinh trong Kinh Pháp Hoa, không chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ thực hành lễ bái Bốn Chúng, mà được sáu căn thanh tịnh, ta sao lại không lễ bái các đức Phật Thế Tôn).” (2) Chỉ cho 4 loại đại chúng ngồi nghe đức Phật thuyết pháp, gồm: (a) Phát Khởi Chúng (發起眾), tức là những người có thể biết được thời cơ lúc nào bắt đầu tập hội, hoặc phát khởi tướng kỳ lạ, vấn đáp, v.v., để sắp xếp cho đức Phật thuyết pháp. (b) Đương Cơ Chúng (當機眾), chỉ cho những người có túc duyên thuần thục, chín muồi, thích hợp để nghe chánh giáo, và ngay trong hội đó được xuất gia. (c) Ảnh Hưởng Chúng (影響眾), chỉ chư Phật, Bồ Tát xưa kia, từ phương khác đến giúp đỡ đức Phật giáo hóa, giấu đi quả vị của họ mà thị hiện hình tướng của chúng căn cơ hiện tại, như bóng theo hình, như âm vang ứng với tiếng, để phò trợ đấng Pháp Vương và làm trang nghiêm pháp tòa. (d) Kết Duyên Chúng (結緣眾), chỉ cho những người có phước thiện đời trước mỏng manh, căn cơ lại thấp kém, tuy chưa chứng ngộ được gì, nhưng nhờ nhân duyên gặp được Phật và nghe pháp, mà kết nhân duyên tương lai sẽ xuất gia tu học. (3) Dưới thời đại vua A Dục (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育), đại chúng Phật pháp được phân chia thành 4 loại; 4 chúng này nhân nghị luận về 5 việc của Tỳ Kheo Đại Thiên (s, p: Mahādeva, 大天) mà hình thành nên Thượng Tọa Bộ (s: Sthaviravāda, p: Theravāda, 上座部) và Đại Chúng Bộ (s, p: Mahāsāṅghika, 大眾部). (a) Long Tượng Chúng (龍象眾), còn gọi là Đại Quốc Chúng (大國眾), chỉ cho dòng phái của Đại Thiên, tức những người phát sinh luận tranh. (b) Biên Bỉ Chúng (邊鄙眾), còn gọi là Ngoại Biên Chúng (外邊眾), chỉ cho môn đồ của Đại Thiên. (c) Đa Văn Chúng (多聞眾), chỉ cho hạng phàm phu chuyên giữ giới, học rộng. (d) Đại Đức Chúng (大德眾), là Thánh chúng chứng 4 quả vị. (4) Chỉ cho 4 chúng là người, trời, rồng và quỷ.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập