Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Nếu bạn muốn những gì tốt đẹp nhất từ cuộc đời, hãy cống hiến cho đời những gì tốt đẹp nhất. (If you want the best the world has to offer, offer the world your best.)Neale Donald Walsch
Hạnh phúc và sự thỏa mãn của con người cần phải phát xuất từ chính mình. Sẽ là một sai lầm nếu ta mong mỏi sự thỏa mãn cuối cùng đến từ tiền bạc hoặc máy điện toán.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Chấm dứt sự giết hại chúng sinh chính là chấm dứt chuỗi khổ đau trong tương lai cho chính mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Cuồng Ca »»
(近松門左衛門, Chikamatsu Monzaemon, 1653-1724): nhà viết kịch bản Ca Vũ Kỷ (歌舞伎, Kabuki), Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃, Jōruri, loại hình chuyện phát xuất từ nguyên lưu của Bình Khúc, Dao Khúc), sống giữa thời đại Giang Hộ; tên thật là Sam Sum Tín Thạnh (杉森信盛), hiệu Bình An Đường (平安堂), Sào Lâm Tử (巢林子), v.v., xuất thân vùng Việt Tiền (越前, Echizen). Về Ca Vũ Kỷ thì ông theo học với Phản Điền Đằng Thập Lang (坂田藤十郎), còn loại hình Tịnh Lưu Ly thì thọ giáo với Trúc Bổn Nghĩa Thái Thu (竹本義太夫). Ông đã biên soạn khá nhiều bản Cuồng Ca, trước tác cả hơn 100 khúc Tịnh Lưu Ly, để miêu tả nét đẹp của lòng người qua đề tài nghĩa lý nhân tình. Trước tác của ông có Xuất Thế Cảnh Tình (出世景情), Quốc Tánh Gia Hợp Chiến (國性爺合戰), Tâm Trung Thiên Đảo Cương (心中天綱島), Nữ Sát Du Địa Ngục (女殺油地獄), v.v.
(吉利支丹 hay 切支丹, Christão [tiếng Bồ Đào Nha]): ban đầu từ này được viết là Cát Lợi Chi Đan (吉利支丹); nhưng sau khi Thiên Chúa Giáo bị cấm đoán thì được viết là Quỷ Lý Tử Đan (鬼理死丹) hay Thiết Tử Đan (切死丹), v.v. Hơn nữa, từ thời Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) trở đi, để tránh tên húy chữ “Cát (吉)” của ông, người ta viết thành Thiết Chi Đan (切支丹). Đây là tên gọi chỉ cho Thiên Chúa Giáo vốn do giáo sĩ Francisco de Zabiel truyền vào Nhật năm 1549 (Thiên Văn [天文] 18), hay tên gọi của tín đồ đạo ấy; còn được gọi là Tông Thiết Chi Đan (切支丹宗), Tông Nam Man (南蠻宗).
(荻生徂徠, Ogyū Sorai, 1666-1728): Nho gia và là Tổ của Học Phái Cổ Văn Từ, sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tên là Song Tùng (雙松); tự Mậu Khanh (茂卿); thông xưng là Vật Hữu Vệ Môn (惣右衛門); hiệu Tồ Lai (徂徠); xuất thân vùng Giang Hộ. Vì thân phụ ông, Phương Am (方庵)—thị y cho Quán Lâm Hầu (館林候, sau này là Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát [德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi]), đắc tội nên ông theo cha lên sống ở vùng Thượng Tổng (上總, Kazusa). Vào năm 1690 (Nguyên Lộc [元祿] 3), ông trở về lại Giang Hộ. Ông viết cuốn Dịch Văn Thuyền Đế (譯文筌蹄), nghiên cứu rất rõ ràng về cách đọc âm Kun của chữ Hán, nên thanh danh bắt đầu nổi dậy. Năm 1696 (Nguyên Lộc 9), ông phục vụ cho Liễu Trạch Cát Bảo (柳澤吉保), rồi cảm xúc trước thi văn của Lý Phàn Long Vương Thế Trinh (李攀龍王世貞) nhà Minh, ông chủ xướng ra Cổ Văn Từ Học (古文辭學). Khi Cương Cát qua đời và Cát Bảo lui về ẩn cư, ông rời khỏi Phiên và khai sáng trường dạy tư Gia Thục Huyên Viên (家塾萱園) tại Mao Trường Đinh (茅塲町, Kayaba-chō), Nhật Bản Kiều (日本橋, Nihonbashi); rồi hình thành nên một dòng phái là Huyên Viên Học Phái (萱園學派). Năm 1714 (Chánh Đức [正德] 4), ông cho san hành cuốn Huyên Viên Tùy Bút (萱園隨筆), phê phán Cổ Nghĩa Học Phái (古義學派) của Y Đằng Nhân Trai (伊藤仁齋) vốn lấy bộ Luận Ngữ (論語) làm trung tâm, và chủ trương Cổ Học kiểu mới, làm cơ sở lý giải chính xác Lục Kinh (六經) theo phương pháp của Cổ Văn Từ Học để làm sáng tỏ con đường của chư vị Thánh hiền xưa. Ông lấy hệ thống văn hóa đồ sộ của Trung Quốc cổ đại làm chỉ tiêu cho con đường của chư vị tiền vương, mà phê phán những ngôn thuyết của hàng Nho gia hậu thế. Biện Đạo (辨道), Biện Danh (辨名) là hai tác phẩm của ông, đã làm sáng tỏ khái niệm cơ bản về Đạo, Đức, Nhân, v.v., từ lập trường của ông. Hơn nữa, ông còn trước tác cuốn Luận Ngữ Trưng (論語徵) với lối chú thích độc đáo, rồi cống hiến bản Chính Đàm (政談) thể theo sự tư vấn của Tướng Quân Cát Tông. Chính ông đã tạo uy thế mạnh mẽ cho Huyên Viên Học Phái ở Giang Hộ, đối xứng với Cổ Nghĩa Học Phái ở kinh đô Kyoto. Đệ tử của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Thái Tể Xuân Đài (太宰春台), Phục Bộ Nam Quách (服部南郭), Sơn Tỉnh Côn Luân (山井崑崙), An Đằng Đông Dã (安藤東野), v.v. Tư thế phục cổ của ông đã tạo ảnh hưởng lớn cho nền Quốc Học đương thời, và đương nhiên dẫn đến những phản bác về chủ thuyết của Tồ Lai. Bên cạnh các trước tác nêu trên, còn có một số tác phẩm khác của ông như Nam Lưu Biệt Chí (南留別志), v.v.
(德川光圀, Tokugawa Mitsukuni, 1628-1700): Phiên chủ đời thứ 2 của Phiên Thủy Hộ (水戸藩, Mito-han) thuộc tiểu quốc Thường Lục (常陸, Hitachi), sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ. Tên lúc nhỏ của ông là Tam Mộc Trường Hoàn (三木長丸), Đức Xuyên Thiên Đại Tùng (德川千代松), Đức Lượng (德亮); tự là Tử Long (子龍), Quán Chi (觀之); hiệu Nhật Tân Trai (日新齋), Thường Sơn Nhân (常山人), Suất Nhiên Tử (率然子), Mai Lí (梅里); biệt danh là Thủy Hộ Quang Quốc (水戸光圀), Thủy Hộ Hoàng Môn (水戸黃門); thụy hiệu là Nghĩa Công (義公); thần hiệu là Cao Nhượng Vị Đạo Căn Chi Mạng (高讓味道根之命); thân phụ là Đức Xuyên Lại Phòng (德川賴房, Tokugawa Yorifusa), mẫu thân là Cốc Cửu Tử (谷久子). Năm 1661 (Khoan Văn [寬文] nguyên niên), ông kế thừa sự nghiệp dòng họ, chỉ huy chính trị của Phiên trong vòng 29 năm trường, đã đóng góp công lao to lớn trong việc xác lập nền chính trị của Phiên thông qua các việc cấm tuẫn tử (殉死, dùng người sống chôn theo người chết), cải cách và chỉnh lý các đền thờ cũng như tự viện, chính sách khuyến nông, nêu cao đạo phong của sĩ phu, v.v. Chính ông đã phê phán lịnh thương xót sinh loại của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi); và đến năm 1690 (Nguyên Lộc [元祿] 3), vì tuổi già sức yếu, ông lui về ẩn cư ở Tây Sơn Trang (西山莊), tự xưng là Tây Sơn Ẩn Sĩ (西山隱士); và nhường lại gia nghiệp cho Đức Xuyên Cương Điều (德川綱條, Tokugawa Tsunaeda), con của người anh Lại Trùng (賴重). Ông là người chuyên khuyến khích Nho học, mở ra Chương Khảo Quán (彰考館) để biên tập bộ Đại Nhật Bản Sử (大日本史), dồn hết năng lực chú thích bộ Vạn Diệp Tập (萬葉集) và tạo cơ sở vững chắc cho Thủy Hộ Học. Bên cạnh đó, ông còn kiến lập bia của Nam Công (楠公), ở vùng Thấu Xuyên (湊川), và mời sứ thần nhà Minh là Chu Thuấn Thủy (朱舜水) sang Phiên Thủy Hộ. Chính vì lẽ đó, những dật thoại cũng như truyền ký về Đức Xuyên Quang Quốc được thêu dệt và viết nên rất nhiều; xuất hiện các giảng đàm và sách thật lục về một vị minh quân như Quang Quốc, tạo ảnh hưởng lớn vào thời Cận Đại. Đặc biệt câu chuyện ông đi du hóa ở các tiểu quốc để xem xét dân tình, dẹp trừ bạo loạn, tham ô, v.v., là đề tài được mọi người rất ưa thích bàn luận, được ghi lại trong tác phẩm Đông Hải Đạo Trung Tất Lật Mao (東海道中膝栗毛) của Thập Phản Xá Nhất Cửu (十返舍一九, Jippensha Ikkū) dưới biệt danh là Thủy Hộ Hoàng Môn.
(唐招提寺, Tōshōdai-ji): ngôi Tổng Bản Sơn trung tâm của Luật Tông Nhật Bản, tọa lạc tại Gojō-chō (五條町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣), một trong 7 ngôi chùa lớn của vùng Nam Đô. Tượng thờ chính của chùa là tượng ngồi Lô Xá Na Phật (盧舍那佛, thời đại Nại Lương) cao 6 trượng. Là ngôi tự viện có liên quan mật thiết với vị Đường tăng Giám Chơn (鑑眞, Ganjin), về sự tình xây dựng chùa được miêu tả rất rõ trong Đường Đại Hòa Thượng Đông Chinh Truyện (唐大和上東征傳) do Đạm Hải Tam Thuyền (淡海三船, Oumi-no-Mifune) soạn thuật vào năm 779. Vượt qua biết bao gian khổ để đến được triều đình Nhật, vào năm 754 (Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] 6), Giám Chơn đã thiết lập Giới Đàn trước tượng Đại Phật của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) để truyền thọ giới pháp cho Thiên Hoàng, Hoàng Hậu và hơn 440 người trong cung nội. Từ đó về sau, ông xác lập chế độ thọ giới. Sau đó, ông nhường lại Đường Thiền Viện (唐禪院) ở Đông Đại Tự cho đệ tử Pháp Tấn (法進, Hōshin), rồi xây dựng một ngôi Biệt Viện mới tại khu đất nhà ở cũ của cố Thân Vương Tân Điền Bộ (新田部, Nitabe)—khu đất do triều đình ban tặng vào năm 759 (Thiên Bình Bảo Tự [天平寳字] 3), và chuyển đến trú ở đây với tên do ông đặt là Đường Chiêu Đề Tự. Đây chính là duyên khởi của chùa này. Về quy mô của ngôi già lam, người tạo lập, v.v., có ghi rõ trong Chiêu Đề Tự Kiến Lập Duyên Khởi (招提寺建立緣起, năm 835). Quần thể đại quy mô của ngôi già lam này có Kim Đường (金堂) nối liền với Hành Lang chạy vòng quanh, Giảng Đường (講堂), Lầu Kinh (經樓), Lầu Chuông (金樓), Tăng Phòng (僧房), v.v., là những kiến trúc được dời từ Đông Triều Tập Điện của Bình Thành Kinh (平城京). Sau khi kinh đô được dời về Trường Cương (長岡), chùa vẫn tiếp tục xây dựng thêm. Dưới thời Bình An, do vì kinh đô dời đi nơi khác nên chùa phải chịu số phận suy vong cùng với những ngôi chùa khác của vùng Nam Đô. Trong phần Thật Phạm Luật Sư Truyện (實範律師傳) của bản Chiêu Đề Thiên Tuế Truyện Ký (招提寺千歳傳記) được hình thành vào năm 1701 (Nguyên Lộc [元祿] 14), có ghi lại lần hoang phế của chùa dưới thời đại này. Đến thời đại Liêm Thương, chùa bắt đầu tái hưng nhờ những hoạt động phục hưng giáo học vùng Nam Đô của Trinh Khánh (貞慶, Jōkei), Duệ Tôn (叡尊, Eison), Giác Thạnh (覺盛, Kakujō), v.v. Vào năm 1202 (Kiến Nhân [建仁] 2), Trinh Khánh bắt đầu tu sửa Đông Thất (東室), thiết lập Đạo Tràng Niệm Phật; đến năm 1240 (Nhân Trị [仁治] nguyên niên) thì xây dựng Lầu Kinh, v.v. Năm 1244 (Khoan Nguyên [寬元] 2), Giác Thạnh—người được kính ngưỡng như là vị sơ tổ thời Trung Hưng của chùa—đến làm trú trì. Ông tiến hành phục hưng về mặt giáo học; và vị tổ thứ 2 là Chứng Huyền (証玄, Shōgen) cũng tận lực góp phần làm cho chùa xương thạnh. Bức tượng Thích Ca theo dạng thức của Thanh Lương Tự (清涼寺, Seiryō-ji) được tôn trí tại Lễ Đường (禮堂, năm 1202), tranh vẽ Đông Chinh Truyện (東征傳), v.v., nói lên một cách chân thật thời kỳ phục hưng này. Lịch sử của chùa từ thời Nam Bắc Triều trở đi thì không rõ lắm, nhưng giống như các ngôi tự viện khác, chùa cũng bị suy tàn mãi cho đến thời Cận Đại. Đến năm 1596 (Trường Khánh [長慶] nguyên niên), do vì động đất, toàn bộ ngôi già lam bị hư nát. Sau đó, nhờ Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) quy y với Long Quang (隆光, Ryūkō)—vị trú trì Hộ Trì Viện (護持院) của chùa, Tướng Quân phát nguyện tu bổ lại toàn bộ già lam để hồi hướng công đức cho thân mẫu ông. Từ khi chùa thành lập chưa có trận hỏa tai nào xảy ra cho đến thời Cận Đại; nhưng vào năm 1802 (Hưởng Hòa [享和] nguyên niên), ngôi tháp được dựng vào năm 810 bị sét đánh làm cháy rụi. Thêm vào đó, vào năm 1833 (Thiên Bảo [天保] 4), Tây Thất (西室), Khai Sơn Đường (開山堂) và năm 1848 (năm đầu niên hiệu Gia Vĩnh [嘉永]) thì Giới Đàn Đường (戒壇堂) bị cháy thành tro bụi. Tuy nhiên, cũng may mắn thay, trung tâm già lam thì không bị ảnh hưởng hỏa tai lớn, các kiến trúc quý giá như Kim Đường, Giảng Đường, Kho Kinh, Kho Báu, v.v., vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay. Bảo vật của chùa hiện có một quần thể tượng điêu khắc giá trị gồm mấy mươi pho như tượng ngồi Lô Xá Na Phật, tượng đứng Thiên Thủ Quan Âm (thời đại Nại Lương), tượng đứng Dược Sư Như Lai (đầu thời Bình An), tượng ngồi Giám Chơn Hòa Thượng (thời đại Nại Lương), v.v. Ngoài ra, còn có rất nhiều bảo vật khác như bình đựng xá lợi do Giám Chơn đem sang, tranh vẽ, kinh điển, v.v. Về tên gọi Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺), Đường (唐) ở đây có nghĩa nói đến vị Đường Tăng Giám Chơn sang truyền Luật Tông vào Nhật. Còn Chiêu Đề (招提) là âm dịch của tiếng Pāli hay Sanskrit cātuddisa, nghĩa là tứ phương, bốn phương. Vậy ngôi Đường Chiêu Đề Tự là ngôi chùa của vị Đường Tăng Giám Chơn dành cho người của bốn phương đến tu tập. Có lẽ đây cũng là chân ý của Hòa Thượng Giám Chơn.
(嵯峨清涼寺, Sagaseiryō-ji) hay Thanh Lương Tự (清涼寺, Seiryō-ji): ngôi chùa của Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại số 46 Sagashakadōfujinoki-chō (嵯峨釈迦堂藤ノ木町), Sakyō-ku (右京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府); hiệu núi là Ngũ Đài Sơn (五台山), thường được gọi là Tha Nga Thích Ca Đường (嵯峨釋迦堂). Tượng thờ chính của chùa là Thích Ca Như Lai (quốc bảo). Ban đầu chùa thuộc về Hoa Nghiêm Tông, rồi sau đến Thiên Thai, Chơn Ngôn, Niệm Phật Tông, nhưng hiện tại thì thuộc về Tịnh Độ Tông. Ngôi chùa này nguyên sơ là sơn trang của Hoàng Tử Nguyên Dung (源融), con của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823), sau đó được cải thành chùa với tên là Thê Hà Tự (棲霞寺). Đến năm 987 (niên hiệu Vĩnh Diên [永延] thứ nhất), vị Tăng Điều Nhiên (奝然) lấy bức tượng Thích Ca đem từ nhà Tống về tôn trí tại đây, sau đó vào năm 1016, khi Điều Nhiên qua đời, thì cao đệ là Thạnh Toán (盛算) mới theo di chí của sư huynh mà tiếp tục khai sáng chùa. Nguyên bản tên chùa Thê Hà Tự hiện vẫn còn lưu lại ở A Di Đà Đường. Tượng Thích Ca đứng bằng gỗ ở chùa này cao 6 mét, có hình tướng đặc dị nhất ở Nhật, tương đương với tượng Phật ở Mathura, Ấn Độ, là loại tượng gỗ bằng Chiêu Đàn. Tượng thờ chính của chùa là A Di Đà Phật, một danh tác vào đầu thời đại Đằng Nguyên, được gọi là Tha Nga Quang Phật (嵯峨光佛). Chùa này cũng đã mấy lần bị hỏa tai cháy rụi, các đường vũ hiện tại là những kiến trúc do vị trú trì Nghiêu Trấn Hòa Thượng (堯鎭和上) tái tạo nên theo mệnh lệnh của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) vào khoảng niên hiệu Văn Lộc (文祿, 1592-1596). Quần thể kiến trúc hiện tại của chùa có Chánh Điện, Tàng Kinh Các, Dược Sư Đường, Linh Bảo Tháp, Sơn Môn, Cổ Tháp, v.v. Chùa còn lưu giữ nhiều bảo vật thuộc dạng quốc bảo hay tài sản văn hóa trọng yếu như tượng đứng Thích Ca Như Lai, bằng gỗ, do Điều Nhiên tạc nên vào năm 985 tại Khai Nguyên Tự (開元寺) ở Đài Châu (台州), khi đang còn ở bên nhà Tống cầu pháp; tượng ngồi A Di Đà Tam Tôn, bằng gỗ, nguyên lai là tượng thờ chính của Thê Hà Tự, được hoàn thành vào năm 896, nhân lễ Húy Kỵ của Hoàng Tử Nguyên Dung; 16 bức tranh màu trên lụa tượng Thập Lục La Hán, v.v.
(室鳩巢, Muro Kyūsō, 1658-1734): Nho gia của phái Chu Tử Học, sống vào khoảng giữa thời Giang Hộ; tên là Trực Thanh (直清); tự Sư Lễ (師禮); thông xưng là Tân Trợ (新助); biệt hiệu Thương Lãng (滄浪); xuất thân Giang Hộ. Ban đầu, ông phục vụ cho Tiền Điền Cương Kỷ (前田綱紀, Maeda Tsunanori), Phiên chủ Phiên Gia Hạ (加賀藩, Kaga-han), rồi vâng mệnh vị này, ông lên kinh đô Kyoto học với Mộc Hạ Thuận Am (木下順庵). Vào năm 1711 (Chánh Đức [正德] nguyên niên), nhờ Tân Tỉnh Bạch Thạch (新井白石) suy cử, ông làm Nho quan cho chính quyền Mạc Phủ. Sau đó, ông làm chức quan Thị Giảng (侍講) cho Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi) và viết cuốn Lục Dụ Diễn Nghĩa Đại Ý (六諭衍義大意). Trong thời kỳ Phái Cổ Học bộc phát mạnh mẽ, ông đã tận lực giữ gìn Chu Tử Học và trước sau vẫn với tư cách là nhà Chu Tử Học nghiêm cẩn. Trước tác của ông có Tuấn Đài Tạp Thoại (駿台雜話), Xích Tuệ Mỹ Nhân Lục (赤穗美人錄), Hiến Khả Lục (獻可錄), v.v.
(室生寺, Murō-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Thất Sanh Tự (室生寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu là Thất Sanh Sơn Tất Địa Viện (室生山悉地院), hiện tọa lạc tại Murō-mura (室生村), Uda-gun (宇陀郡), Nara-ken (奈良縣). Năm 681 (niên hiệu Thiên Võ [天武] thứ 10), thể theo ý nguyện của Thiên Võ Thiên Hoàng (天武天皇, Temmu Tennō), tương truyền Dịch Tiểu Giác (役小角, En-no-Ozunu) sáng lập ra chùa này. Trong khoảng thời gian niên hiệu Bảo Quy (寳龜, 770-780), Hiền Cảnh (賢璟, Kenkyō, 705-793) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) quản lý chùa và đệ tử của ông là Tu Viên (修圓, Shūen, 771-835) kiến lập các ngôi đường tháp vào khoảng thời gian niên hiệu Thiên Trường (天長, 824-834). Vào năm 824 (niên hiệu Thiên Trường thứ 1), Không Hải (空海, Kūkai) đến chùa này, dâng cúng bảo châu Ma Ni và biến nơi đây thành đạo tràng của Chơn Ngôn Mật Giáo. Sao đó, Kiên Tuệ (堅慧, Kene) đến trú trì, làm cho chùa trở nên hưng thạnh, và chùa đã trãi qua một thời gian khá dài phụ thuộc vào sự quản lý của Hưng Phước Tự. Dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), các vị Luật tăng của Đường Chiêu Đề Tự (唐招提寺, Tōshōdai-ji) cũng như Tây Đại Tự (西大寺, Saidai-ji) đã từng đến trú trì ở đây. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), vào năm 1694 (niên hiệu Nguyên Lộc [元祿] thứ 7), Hộ Trì Viện Long Quang (隆光, Ryūkō, 1649-1724) đến làm trú trì, cho nên chùa trở thành đạo tràng của Phái Phong Sơn (豐山) thuộc Chơn Ngôn Tông, và nhờ sự hiến cúng tịnh tài của Quế Xương Viện (桂昌院, mẹ của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát [德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi]), các đường vũ của chùa được tu sửa lại hoàn chỉnh. Vào thời Cận Đại, Phái Phong Sơn tách riêng ra khỏi chùa và nơi đây trở thành ngôi chùa trung tâm của Phái Thất Sanh Tự. Khuôn viên chùa rất u nhã, người nữ bị cấm không được đến tham bái. Chùa chưa từng bị hỏa tai hay binh hỏa, cho nên các ngôi đường tháp vẫn còn giữ lại nét ngày xưa. Kim Đường (金堂) là kiến trúc được dựng vào đầu thời Bình An (平安, Heian), bên trong ở giữa thờ tượng đứng Thích Ca Như Lai, bên phải nhìn vào có tượng Dược Sư Như Lai và Địa Tạng Bồ Tát, bên trái có tượng Văn Thù Bồ Tát Và Thập Nhất Diện Quan Âm; tất cả đều những kiệt tác đầu thời Bình An. Ngoài ra, còn có tượng Thập Nhị Thần Tướng, thuộc thời đại Liêm Thương. Ngũ Trùng Tháp được kiến lập từ khoảng cuối thời đại Nại Lương (奈良, Nara) cho đến đầu thời Bình An. Chánh Điện là Quán Đảnh Đường (灌頂堂), tôn trí tượng Như Ý Luân Quan Âm (cuối thời Bình An). Ngự Ảnh Đường (御影堂) là Đại Sư Đường (大師堂), được kiến tạo dưới thời Liêm Thương. Bên cạnh đó, còn có Di Lặc Đường (彌勒堂), Hộ Ma Đường (護摩堂), Nhà Kho, v.v. Bảo vật của chùa có các tượng Phật trong Kim Đường, tượng ngồi Thích Ca Như Lai (đầu thời Bình An), tượng đứng Di Lặc Bồ Tát (thời đại Nại Lương), những pháp cụ Mật Giáo, v.v.
(松永貞德, Matsunaga Teitoku, 1571-1653): ca nhân và nhà Haiku sống vào đầu thời đại Giang Hộ, tên là Thắng Hùng (勝熊), hiệu Trường Đầu Hoàn (長頭丸), Tiêu Du Hiên (逍遊軒), người vùng Kyoto. Ông theo học Hòa Ca với Tế Xuyên U Trai (細川幽齋, Hosokawa Yūsai), rồi Liên Ca với Lí Thôn Thiệu Ba (里村紹巴, Satomura Jōha). Sau ông dạy lại Hòa Ca cho những người lớp dưới, và cũng là tác giả của một số Cuồng Ca đầu thời Cận Đại. Ông viết ra cuốn Bài Hài Ngự Tản (俳諧御傘), để quy định về pháp thức và danh mục của thể ca châm biếm hài. Môn nhân của ông có Bắc Thôn Quý Ngâm (北村季吟, Kitamura Kigin), là những nhân vật nổi tiếng đương thời. Trước tác của ông có Tân Tăng Đại Khủng Ba Tập (新增大筑波集), Hồng Mai Thiên Cú (紅梅千句).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.49 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập