Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Công Dận »»
(道元, Dōgen, 1200-1253): vị tăng sống vào đầu thời kỳ Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), tổ sư khai sáng ra Tào Động Tông Nhật Bản, húy là Hy Huyền (希玄), xuất thân vùng Kyoto (京都), họ là Nguyên (源), con của vị Nội Đại Thần Cửu Ngã Thông Thân (內大臣久我通親), mẹ là con gái của Cửu Điều Cơ Phòng (九條基房). Năm lên 3 tuổi, ông mất cha, rồi đến 8 tuổi thì mất mẹ. Năm lên 13 tuổi, ông theo xuất gia với Lương Quán (良觀) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), ở tại Bát Nhã Cốc Thiên Quang Phòng (般若谷千光房) thuộc Thủ Lăng Nghiêm Viện (首楞嚴院) vùng Hoành Xuyên (横川, Yokogawa), đến năm sau ông thọ giới với vị Tọa Chủ Công Viên (公圓). Sau đó, ông đến tham học với Trường Lại Công Dận (長吏公胤) ở Viên Thành Tự (圓城寺), và thể theo lời dạy của vị này, ông đến Kiến Nhân Tự (建仁寺, Kennin-ji), theo hầu môn hạ của Vinh Tây (榮西, Eisai) là Minh Toàn (明全, Myōzen). Vào năm thứ 2 (1223) niên hiệu Trinh Ứng (貞應), ông cùng với Minh Toàn sang nhà Tống cầu pháp, dừng chân ở Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức Tự (天童山景德寺), rồi lại đi tham bái các chùa khác như Dục Vương Sơn Quảng Lợi Tự (育王山廣利寺), nhưng cuối cùng rồi cũng quay về Thiên Đồng Sơn. Chính nơi đây ông gặp được Trưởng Ông Như Tịnh (長翁如淨) và được vị này ấn khả cho. Vào năm đầu (1227) niên hiệu An Trinh (安貞), ông trở về nước. Sau khi trở về, ông tạm thời lưu trú tại Kiến Nhân Tự một thời gian, rồi đến năm đầu (1229) niên hiệu Khoan Hỷ (寬喜), ông đến trú tại An Dưỡng Viện (安養院) ở vùng Thâm Thảo (深草, Fukakusa) ở kinh đô Kyoto. Vào năm đầu (1233) niên hiệu Thiên Phước (天福), thể theo lời thỉnh cầu của Đằng Nguyên Giáo Gia (藤原敎家) và vị ni Chánh Giác (正覺), ông khai sáng Quan Âm Đạo Lợi Viện Hưng Thánh Bảo Lâm Tự (觀音道利院興聖寳林寺) ở vùng Sơn Thành (山城, Yamashiro) và sống tại đây hơn 10 năm. Đến năm đầu (1243) niên hiệu Khoan Nguyên (寬元), đáp ứng lời thỉnh cầu của Ba Đa Dã Nghĩa Trọng (波多野義重), ông lên Chí Tỉ Trang (志比莊) ở vùng Việt Tiền (越前, Echizen, thuộc Fukui-ken [福井縣]), dừng chân ở tại thảo am Cát Phong Cổ Tự (吉峰古寺). Năm sau ông phát triển nơi đây thành Đại Phật Tự (大佛寺, Daibutsu-ji) và bắt đầu khai đường thuyết pháp giáo hóa, và hai năm sau nữa ông đổi tên chùa thành Vĩnh Bình Tự (永平寺, Eihei-ji). Hậu Tha Nga Pháp Hoàng (後嵯峨法皇) có ban tặng Tử Y cho ông, nhưng ông cố từ không nhận. Vào mùa hè năm thứ 4 niên hiệu Kiến Trường (建長), ông nhuốm bệnh, rồi đến tháng 7 năm sau ông giao hết mọi chuyện lại cho đệ tử Cô Vân Hoài Trang (孤雲懷奘), và vào ngày 28 tháng 8 năm này (1253), ông thị tịch trên kinh đô, hưởng thọ 54 tuổi. Trước tác của ông có bộ Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏) 95 quyển, Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi (普勸坐禪儀) 1 quyển, Học Đạo Dụng Tâm Tập (學道用心集) 1 quyển, Vĩnh Bình Thanh Quy (永平清規) 2 quyển, Vĩnh Bình Quảng Lục (永平廣錄) 10 quyển, Tản Tùng Đạo Vịnh (傘松道詠), v.v. Vào năm thứ 7 (1854) niên hiệu Gia Vĩnh (嘉永), ông được Hiếu Minh Thiên Hoàng (孝明天皇) ban cho thụy hiệu là Phật Tánh Truyền Đông Quốc Sư (佛性傳東國師), rồi đến năm thứ 11 niên hiệu Minh Trị (明治), ông lại được ban cho thụy hiệu là Thừa Dương Đại Sư (承陽大師). Trong Tào Động Tông Nhật Bản, ông được gọi là Cao Tổ.
(山門): cửa núi. Các tự viện của Trung Quốc cũng như các nước Phật Giáo Đại Thừa phần lớn đều kiến lập trong núi; cho nên cổng lớn của chùa được gọi là Sơn Môn; tượng trưng cho cổng dẫn đến đường Bồ Đề, chuyển mê thành ngộ, rời ô nhiễm để nhập vào thanh tịnh, xa lìa khổ để chứng đắc an lạc. Thông thường Sơn Môn có một cổng hay 3 cổng; vì vậy có tên gọi là Bất Nhị Môn (不二門), hay Tam Môn (三門), thể hiện ba cánh cửa giải thoát, gồm: Không Môn (空門), Vô Tướng Môn (無相門) và Vô Tác Môn (無作門). Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 20 có giải thích rằng: “Thí như thành hữu tam môn, nhất nhân thân bất đắc nhất thời tùng tam môn nhập; nhược nhập tắc tùng nhất môn; chư pháp thật tướng thị Niết Bàn thành, thành hữu tam môn: Không, Vô Tướng, Vô Tác (譬如城有三門、一人身不得一時從三門入、若入則從一門、諸法實相是涅槃城、城有三門、空、無相、無作, giống như thành có ba cổng, một thân người không thể cùng một lúc vào được ba cổng; nếu muốn vào thì phải vào một cổng; thật tướng của các pháp là thành Niết Bàn, thành ấy có ba cửa: Không, Vô Tướng, Vô Tác).” Hay như trong Lăng Nghiêm Kinh (楞嚴經) quyển 4 có câu: “Linh nhữ đản ư nhất môn thâm nhập, nhập nhất vô vọng, bỉ Lục Tri Căn nhất thời thanh tịnh (令汝但於一門深入、入一無妄、彼六知根一時清淨, khiến ngươi chỉ vào trong một cửa, vào rồi không sai lầm, sáu căn biết của người ấy nhất thời trong sạch).” Tánh quy nguyên vốn không có hai, và phương tiện thì có nhiều cửa để vào. Pháp môn tu hành của Phật Giáo có 84.000 loại khác nhau, tượng trưng cho vô số hình thức, phương pháp tu hành. Trong Phật Giáo Đại Thừa có rất nhiều hình thức cũng như cửa tu hành khác nhau, nhưng tựu trung nguyên tắc cũng như mục tiêu tu học thì giống nhau. Pháp môn vốn bình đẳng, không có cao thấp, sang hèn, tốt xấu, v.v. Như tại Thạch Đầu Tự (石頭寺), Hành Sơn (衡山), Tỉnh Hồ Nam (湖南省) có câu đối rằng: “Thạch kính hữu trần phong tự tảo, Sơn Môn vô tỏa nguyệt thường quan (石徑有塵風自掃、山門無鎖月常關, lối đá bụi trần gió tự quét, cửa Thiền chẳng khóa trăng thường soi).” Hay trong Tỉnh Am Pháp Sư Ngữ Lục (省庵法師語錄) quyển Hạ của Đại Sư Thật Hiền Tỉnh Am (實賢省庵, 1686-1734) có câu: “Tịnh Độ nhân hà độc chỉ Tây, yếu linh tâm niệm hữu quy thê, nhất môn nhập hậu môn môn nhập, sơ bộ mê thời bộ bộ mê (淨土因何獨指西、要令心念有歸栖、一門入後門門入、初步迷時步步迷, tịnh độ vì sao chỉ riêng Tây, cần khiến tâm niệm quay trở về, một cửa nhập rồi cửa cửa nhập, bước đầu mê lạc bước bước mê).” Trong thời công phu buổi khuya của Thiền môn có câu: “Thập Địa đốn siêu vô nan sự, Tam Môn thanh tịnh tuyệt phi ngu (十地頓超無難事、三門清淨絕非虞, Mười Địa siêu thăng không việc khó, Tam Môn thanh tịnh hết âu lo).”
(十二宮): 12 cung. Theo quan niệm Thiên Văn Học của Phật Giáo, 12 cung này có tên như sau (theo thứ tự tiếng Phạn, âm dịch, ý dịch và tiếng Anh):
(1) Meṣa (Mê Sa [迷沙], Dương Cung [羊宮, cung con dê], Aries);
(2) Vṛṣabha (Tỳ Lợi Sa [毘利沙], Ngưu Cung [牛宮, cung con trâu], Taurus);
(3) Mithuna (Di Thâu Na [彌偷那], Nam Nữ Cung [男女宮, cung nam nữ], Gemini);
(4) Karkaṭaka (Yết Ca Tra Ca [羯迦吒迦], Giải Cung [蟹宮, cung con cua], Cancer);
(5) Siṃha (Sư Tử Cung [獅子宮, cung sư tử], Leo);
(6) Kanyā (Ca Nhã [迦若], Nữ Cung [女宮, cung người nữ], Virgo);
(7) Tulā (Suất La [兜羅], Xứng Cung [秤宮, cung cái cân], Libra);
(8) Vṛgścika (Tỳ Ly Chi Ca [毘離支迦], Hiết Cung [蝎宮, cung con bò cạp], Scorpius);
(9) Dhanus (Đàn Dật Bà [檀逸婆], Cung Cung [弓宮, cung cái cung], Sagittarus);
(10) Makara (Ma Già La [摩伽羅], Ma Yết Cung [摩羯宮], Capricornus);
(11) Kumbha (Cưu Bàn [鳩槃], Bình Cung [缾宮, cung cái bình], Aquarius); và
(12) Mīna (Di Na [彌那], Ngư Cung [魚宮, cung con cá], Pisces)
Theo Đạo Giáo Trung Quốc, quan niệm của 12 cung này có khác nhau về nội dung, được thể hiện trên khuôn mặt của con người.
(1) Mạng Cung (命宮, Cung Mạng), hay Bạch Dương Tọa (白羊座), là cung chủ yếu về vận mạng, năng lực tinh thần; nằm ở khoảng giữa hai chân mày, thế gian thường gọi là Mi Gian (眉間), Tướng Số gọi là Ấn Đường (印堂), mỗi bộ phận biểu thị cá nhân thiên phú ít nhiều. Nếu như sanh tốt đẹp, thể hiện đầu não ưu tú, tinh thần khoan dung, có phước lộc thọ, là đứa trẻ may mắn của trời đất. Hai hàng lông mày không nên quá tiếp cận với nhau; nếu gần quá thì Cung Mạng bị hẹp đi, rút ngắn lại, chứng tỏ người này một đời lao khổ, nhiều âu lo. Nếu người có Cung Mạng tròn đầy như kính, thể hiện người đó thiên tánh mạnh mẽ, trí tuệ thông minh; và nếu có chí học tập, nhất định sẽ thành công. Vả lại nó còn thể hiện người đó thọ mạng lâu dài, có phước phần. Nếu người có Cung Mạng uất ức, nhăn nhó, người đó thường mang hoài bão lớn, bi quan, phần lớn việc làm đều không được như ý và thọ mạng lại ngắn. Đối với người có Ấn Đường khí sắc hồng hào, thể hiện vạn sự đều tốt đẹp, là điềm thể hiện danh lợi song toàn. Nếu như biểu hiện khí sắc u ám, tối tăm, tức là điềm xấu báo hiệu tai họa sắp giáng xuống, cho nên tất cả cử động đều phải cẩn trọng, đề phòng. Nói chung, cát hung, họa phước đều thể hiện vào khí sắc của con người.
(2) Tài Bạch Cung (財帛宮, Cung Tài Của) hay Kim Ngưu Tọa (金牛座), chủ yếu về vận tài sản, tiền bạc; gồm toàn thể chóp mũi, tức đầu mũi, Tướng Số gọi là bộ phận Chuẩn Đầu (準頭). Do vì lỗ mũi thuộc Thổ, mà Thổ thì có thể sinh Kim, nên có câu: “Hữu Thổ tư hữu tài (有土斯有財, có đất là có tài).” Vì vậy Cung Tài Của thuộc vào lỗ mũi. Người nào có bộ phận lỗ mũi hoàn mỹ, được gọi là có tài khí, áo quần, thức ăn, nơi ở đều sung túc; chẳng cầu giàu sang mà giàu sang tự có. Từ đó có thuyết cho rằng lỗ mũi thuộc về Sao Tài, khí sắc cần sáng sủa, có thịt nhô lên; lỗ mũi không quá lộ, quá hở, tất đó là nhà phú quý. Nếu như hở lộ quá, tức là nhà bần tiện, nghèo túng. Nếu Cung Tài Của khí sắc sáng sủa, thể hiện tài lợi thuận điều. Nếu như khí sắc tối tăm, u ám, là điềm báo cho biết hao tài hay vận trì trệ.
(3) Huynh Đệ Cung (兄弟宮, Cung Anh Em) hay Song Tử Tọa (雙子座), chủ yếu về vận mạng xã giao, anh em thế nào; bao gồm toàn thể lông mi; nếu nói về nghĩa hẹp thì chỉ anh chị em ruột, về nghĩa rộng là thân tộc, hay anh em bốn biển. Cho nên lông mi dài, ư nhã, ngay thẳng, biểu thị tánh tình hiền lương, anh em cùng nhau đối đãi tốt đẹp, xã giao trọn vẹn. Nếu lông mi hoàn mỹ, thể hiện anh em nhiều, thân thích sâu đậm, có nhiều trợ lực. Nếu lông mi mỏng mà ít, tức anh em ít, duyên thân thích bạt bẽo, trợ lực ít. Về lông mi, người nam nên to, người nữ nên nhỏ. Người có lông mi to thì tâm lượng rộng lớn. Người có lông mi nhỏ thì tâm nhỏ hẹp. Người nam mà sanh lông mi nữ, tánh tình như phụ nữ. Người nữ mà sanh lông mi nam, tánh tình như đàn ông.
(4) Điền Trạch Cung (田宅宮, Cung Ruộng Nhà) hay Cự Giải Tọa (巨蟹座), chủ yếu về vận mạng gia đình, ái tình; tuy chỉ bộ phận giữa lông mày và con mắt, nhưng theo nghĩa rộng của Cung Ruộng Nhà, nó chỉ cho cả hai mắt. Ruộng là gốc để nuôi dưỡng mạng sống, nhà là nơi để an thân; nên nói theo ngôn từ hiện đại là Cung Gia Đình, thể hiện hoàn cảnh gia đình như thế nào. Nếu bộ phận này rộng, có thịt, thể hiện hoàn cảnh gia đình tốt đẹp. Tròng mắt trắng đen rõ ràng, cho biết gia đình tròn vẹn, lại có sản nghiệp. Nếu tròng mắt tối tăm, thể hiện ruộng nhà phá sản, tha hương bất hạnh. Nếu tròng mắt phủ đầy tơ hồng, biểu thị bần cùng đến già. Người có tròng mắt màu đỏ, hình như vòng tròn lửa, hay màu xanh, được gọi là mắt hung dữ, là điềm báo trước không bị giết cũng tự sát.
(5) Nam Nữ Cung (男女宮, Cung Nam Nữ) hay Tử Nữ Cung (子女宮, Cung Con Gái), còn gọi là Sư Tử Tọa (獅子座), chủ yếu về vận mạng đối với người khác phái hay đối với người nữ; nằm ngay dưới hai con mắt, còn gọi là bộ phận Lệ Đường (淚堂) hay Ngọa Tàm (臥蠶), thể hiện có con gái hay không, có ít hay nhiều, tốt xấu thế nào. Bộ phận này nếu tròn đầy, tức thể hiện có cảm tình thích ứng, con cháu duyên sâu dày, có tiền của dư dật cho đến chết. Nếu quả nơi ấy lõm vào, không có da thịt, thể hiện sự xung khắc với con gái, hay vô duyên. Người có khí sắc nơi Lệ Đường màu xanh, phụ nữ ấy chủ yếu nguy hiểm về sinh sản. Nếu thấy có màu đen hay trắng, chủ yếu người ấy có chuyện bi ai; nếu thấy màu hồng thì sẽ sanh con vui vẻ.
(6) Nô Bộc Cung (奴僕宮, Cung Nô Bộc) hay Xử Nữ Cung (處女座), chủ yếu về vận mạng có bộ hạ thế nào, nơi ở ra sao; nằm dưới cằm má, tức ở bộ phận xương quai hàm, thể hiện năng lực thống lãnh và chế ngự, bộ hạ có ít nhiều thế nào. Nếu bộ phận này to lớn, biểu hiện khí hồn giàu có, thống lãnh, được bộ hạ nhiều. Còn nếu quai hàm nhọn và nhỏ, tức không có duyên với bộ hạ cấp dưới và thiếu tài năng lãnh đạo. Về khí sắc của bộ phận này, nếu có màu hồng vàng, sáng tỏ, chủ yếu có nhiều nô bộc, người hầu kẻ hạ tấp nập. Nếu là màu xanh, đen, tối tăm, cho biết tôi tớ chạy mất và có bệnh tật, tai ách.
(7) Phu Thê Cung (夫妻宮, Cung Vợ Chồng) còn gọi là Thê Thiếp Cung (妻妾宮), hay Thiên Bình Tọa (天秤座), chủ yếu về vận mạng phối ngẫu, kết hôn; nằm nơi đuôi lông mày của hai con mắt, thường được gọi là đuôi cá; do vì đuôi cá ấy vươn đến bộ vị vủa tóc mai, nên có tên là Gian Môn (奸門). Thê Thiếp Cung chỉ về bộ phận Gian Môn này. Nó thể hiện việc vợ chồng, hôn nhân có mỹ mãn hay không. Nếu sắc màu sáng sủa, đầy đặn, cho biết việc hôn nhân mỹ mãn. Nếu phần đuôi cá sạm đen, hay có hoa văn chữ thập, tức cho biết vợ chồng vô duyên. Người có nhiều hoa văn nơi đuôi cá, tức tình dục rất phong phú, sung mãn.
(8) Tật Ách Cung (疾厄宮, Cung Tật Ách), hay Thiên Hiết Tọa (天蠍座), chủ yếu về tai họa, tật bệnh thế nào; nằm ngay trên sống mũi, giữa hai con mắt; còn gọi là sơn căn (山根), thể hiện người ấy có sức khỏe thế nào và tai nạn ra sao. Nếu bộ phận sống mũi dài, nhô đầy, không bị khuyết lõm, cho biết suốt đời bình an, thân tâm sức khỏe. Còn nếu gãy đứt, thấp lõm, e rằng sẽ có nhiều tật bệnh và tai ách.
(9) Thiên Di Cung (遷移宮, Cung Thiên Di), hay Nhân Mã Tọa (人馬座), chủ yếu về vận mạng du lịch, di chuyển; nằm ở hai góc lông mày phía trên cho đến bộ phận mái tóc, thế gian thường gọi là bộ vị của Huyệt Thái Dương (太陽穴). Sách Tướng Số gọi nó là Thiên Thương (天倉), Dịch Mã (驛馬). Người xưa căn cứ vào đây để đoán về nơi ăn chốn ở, di chuyển, chức vị biến động cũng như du lịch thế nào. Nếu bộ phận này có sắc màu sáng, tức biến động có lợi, mưu sự thuận thành. Nếu sắc màu xấu, chủ yếu hung tai, hoặc có lo âu mất mác chức vị; nếu là màu xanh thì cho biết sẽ gặp trộm cắp trong nhà.
(10) Quan Lộc Cung (官祿宮, Cung Quan Lộc), hay Sơn Dương Tọa (山羊座), chủ yếu về công danh, sự nghiệp; nằm ngay chính giữa trán, còn gọi là bộ vị Trung Chánh (中正). Bộ phận này thể hiện năng lực trí thức trời phú có ít nhiều thế nào, liên quan đến công danh, địa vị của cá nhân. Nếu cung này phẳng, đầy, sáng tỏ, cho biết người ấy có ý chí bất khuất, công danh thuận lợi, địa vị xã hội cao.
(11) Phước Đức Cung (福德宮, Cung Phước Đức), hay Thủy Bình Tọa (水瓶座), chủ yếu về vận mạng cơ hội, vật chất; nằm hai bên trán, thể hiện cơ hội, tài vận, lợi hại, được mất thế nào. Về phương pháp xem Cung Phước Đức này, chủ yếu lấy bộ phận Thiên Thương, cọng thêm phần Địa Khố (地庫) dưới cằm. Nếu tương đối tốt đẹp, tướng đẹp, thể hiện vận buôn bán rất hanh thông, có phước đức, ngồi không cũng được hưởng giàu sang.
(12) Tướng Mạo Cung (相貌宮, Cung Tướng Mạo), hay Song Ngư Tọa (雙魚座), chủ yếu về một đời người, phần cuối đời thế nào; được gọi là Ngũ Nhạc Tam Đình (五岳三停). Ngũ Nhạc chỉ cho má bên trái, là Đông Nhạc Thái Sơn (東岳泰山), má bên phải là Tây Nhạc Hoa Sơn (西岳華山), trán phía trên là Nam Nhạc Hành Sơn (南岳衡山), trên mũi là Trung Nhạc Tung Sơn (中岳嵩山), phần dưới xương quai hàm là Bắc Nhạc Hằng Sơn (北岳恆山). Tam Đình gồm Thượng Đình, Trung Đình và Hạ Đình. Nếu Ngũ Nhạc Tam Đình tương ứng, cân đối với nhau, chủ yếu thể hiện giàu sang, sống lâu. Nếu ngược lại tắc khốn khổ, vạn sự đều không thành.
Ngoài ra Thập Nhị Cung còn là thuật ngữ được sử dụng trong Mật Giáo, nằm ở vị trí Kim Cang Bộ Viện (金剛部院), ngoài Thai Tạng Giới Mạn Trà La (胎藏界曼荼羅), chia làm 4 phương. Đại Sớ cho rằng 12 cung này là quyến thuộc của Nguyệt Thiên (月天), phân phối phương vị có khác với Thiên Văn Học hiện đại, nhưng đại thể giống nhau. Tại phương Đông có Phu Phụ Cung (夫婦宮, hay Song Nữ Cung [雙女宮]), Dương Cung (羊宮, hay Bạch Dương Cung [白羊宮]), Ngưu Cung (牛宮, hay Kim Ngưu Cung [金牛宮]). Tại phương Tây có Bình Cung (秤宮, hay Thiên Bình Cung [天秤宮], Bình Lượng Cung [秤量宮]), Hiết Cung (蝎宮, hay Thiên Hiết Cung [天蝎宮], Hiết Trùng Cung [蝎蟲宮]), Cung Cung (弓宮, hay Nhân Mã Cung [人馬宮]). Tại phương Nam có Bình Cung (瓶宮, hay Bảo Bình Cung [寶瓶宮]), Nhị Ngư Cung (二魚宮, hay Song Ngư Cung [雙魚宮], Hiền Bình Cung [賢瓶宮]), Mật Ngưu Cung (密牛宮, hay Ma Hiết Cung [摩蝎宮]). Tại phương Bắc có Bàng Giải Cung (螃蟹宮, hay Cự Giải Cung [巨蟹宮]), Sư Tử Cung (獅子宮), Song Nữ Cung (雙女宮, hay Thất Nữ Cung [室女宮], Tiểu Nữ Cung [小女宮]).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập