Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda
Đừng làm cho người khác những gì mà bạn sẽ tức giận nếu họ làm với bạn. (Do not do to others what angers you if done to you by others. )Socrates
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Chơn Thạnh »»
(妙力): sức mạnh thần diệu. Như trong bài thơ Kinh Sư (京師) của Thẩm Ước (沉約, 441-513) nhà Lương thời Nam Triều có đoạn: “Ngưỡng kỳ chơn thánh chi ân, sát kỳ thành tâm, bị dĩ diệu lực, linh thần sở chí hoạch toại (仰祈眞聖之恩、察其誠心、被以妙力、令臣所志獲遂, ngưỡng mong chơn thánh ơn cao, xét tâm thành ấy, lấy năng lực thần diệu, khiến chí nguyện của thần được thỏa mãn).” Hay trong bài thơ Lễ Võ Đài Tọa Hóa Tăng (禮武臺坐化僧) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống có cũng có câu: “Thỉ độc bích gian bi, diệu lực ẩn bất truyền (始讀壁間碑、妙力隱不傳, mới đọc bia trong đá, diệu lực ẩn không truyền).” Hoặc trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3 có câu: “Duy nguyện Phật từ quảng đại, diệu lực nan tư, giáng lâm đạo tràng, chứng minh công đức (唯願佛慈廣大、妙力難思、降臨道塲、證明功德, cúi mong lòng từ Phật rộng lớn, năng lực mầu nhiệm khó nghĩ bàn, giáng xuống đạo tràng, chứng minh công đức).”
(s: go-ratha, 牛車): xe trâu, tên gọi của một trong 3 xe hay 4 xe. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) quyển 2, Phẩm Thí Dụ (譬喻品) có nêu ra 3 loại xe: dê, nai, trâu và Đại Bạch Ngưu Xa (大白牛車, xe trâu trắng lớn); xe trâu tỷ dụ cho Bồ Tát Thừa (s: bodhisattva-yāna, 菩薩乘). Như trong Thích Ca Như Lai Thành Đạo Ký Chú (釋迦如來成道記註) quyển hạ do Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường soạn, Huệ Ngộ Đại Sư (慧悟大師) ở Nguyệt Luân Sơn (月輪山), vùng Tiền Đường (錢唐) chú giải, có đoạn rằng: “Pháp Hoa Kinh Tam Xa dụ dã, Dương Xa dụ Thanh Văn Thừa, Lộc Xa dụ Duyên Giác Thừa, Ngưu Xa dụ Bồ Tát Thừa; Tam Thừa câu dĩ vận tải vi nghĩa; tiền Nhị Thừa thị phương tiện thi thiết, duy Đại Bạch Ngưu Xa thị thật (法華經三車喻也、羊車喻聲聞乘、鹿車喻緣覺乘、牛車喻菩薩乘、三乘俱以運載爲義、前二乘是方便施設、惟大白牛車是實, về thí dụ Ba Xe của Kinh Pháp Hoa, Xe Dê ví cho Thanh Văn Thừa, Xe Nai ví cho Duyên Giác Thừa, Xe Trâu ví cho Bồ Tát Thừa; cả Ba Thừa đều có nghĩa vận tải; Hai Thừa đầu là phương tiện đặt ra, chỉ có Xe Trâu Trắng Lớn là thật).” Hay trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch Sớ (大佛頂首楞嚴經正脈疏) quyển 17 do Giao Quang Đại Sư (交光大師) nhà Minh (1368-1662) thuật, có giải thích về Nhất Thừa rằng: “Nhất Thừa giả, Nhất Phật Thừa dã; tức Pháp Hoa Đại Bạch Ngưu Xa, tịch diệt trường địa, tức bản giác quả thể, vạn vọng bản không, nhất chơn thanh tịnh (一乘者、一佛乘也、卽法華大白牛車、寂滅塲地、卽本覺果體、萬妄本空、一眞清淨, Nhất Thừa là Nhất Phật Thừa; tức là Xe Trâu Trắng Lớn của Kinh Pháp Hoa, là đạo tràng vắng lặng, tức là thể quả của bản giác, mọi hư vọng vốn không, nguồn chơn thanh tịnh).” Hoặc như trong Đại Thừa Khởi Tín Luận Liệt Cương Sớ (大乘起信論裂網疏, Taishō No. 1850) quyển 1 do Linh Phong Ngẫu Ích Sa Môn Trí Húc (靈峰蕅益沙門智旭, 1599-1655) soạn, có đoạn: “Thỉ tùng danh tự, vận chí quán hành, nãi chí cứu cánh, tự vận công tất, vận tha bất hưu, danh vi Đại Bạch Ngưu Xa, kim ngôn Đại Thừa, chánh chỉ Đại Bạch Ngưu Xa, giản phi môn ngoại Tam Xa cố dã (始從名字、運至觀行、乃至究竟、自運功畢、運他不休、名爲大白牛車、今言大乘、正指大白牛車、揀非門外三車故也, ban đầu từ danh từ, vận chuyển đến quán sát và thực hành, cho đến cứu cánh; công phu tự vận chuyển mình xong, vận chuyển người khác chẳng ngừng nghỉ, đó gọi là Xe Trâu Trắng Lớn; nay nói Đại Thừa [cỗ xe lớn], chính là chỉ cho Xe Trâu Trắng Lớn; chẳng phải là ba cỗ xe ngoài cửa kia).”
(津和野藩, Tsuwano-han): tên của một Phiên cai trị vùng Tân Hòa Dã (津和野, Tsuwano) thuộc tiểu quốc Thạch Kiến (石見, Iwami) dưới thời Giang Hộ. Cơ quan hành chính của Phiên là Thành Tân Hòa Dã (津和野城, Tsuwano-jō). Dưới thời đại Chiến Quốc, dòng họ Cát Kiến (吉見, Yoshimi), nhà hào tộc từng phục vụ cho hai dòng họ Đại Nội (大內, Ōuchi) và Mao Lợi (毛利, Mōri), quản lãnh địa phương này. Cho nên, trước khi xảy ra cuộc chiến ở Sekigahara (關ヶ原), vùng đất này là sở hữu của dòng họ Mao Lợi. Vào ngày 15 tháng 10 năm 1600 (Khánh Trường [慶長] 5), trong trận chiến Sekigahara, Phản Khi Trực Thạnh (坂崎直盛, Sakazaki Naomori), người anh em họ của Hỷ Vũ Đa Tú Gia (喜宇多秀家), lập chiến công lớn và hình thành một Phiên mới với 3 vạn thạch. Sau đó, trong trận chiến ở Đại Phản (大阪, Ōsaka), ông xông trận cứu thoát công chúa Thiên Cơ (千姫), nên được ban cho 1 vạn 3468 thạch vào ngày 20 tháng 7 năm 1617 (Nguyên Hòa [元和] 3). Tuy nhiên, ngày 11 tháng 9 cùng năm, do những dư âm về sự kiện công chúa Thiên Cơ, Trực Thạnh bị gia thần sát hại và dòng họ Phản Khi coi như đoạn diệt. Thay vào đó, ngày 20 tháng 7 năm 1618 (Nguyên Hòa 3), Quy Tỉnh Chính Củ (龜井政矩, Kamei Masanori) của Phiên Nhân Phan Lộc Dã (因幡鹿野藩) đến nhậm chức với 4 vạn 3000 thạch. Kể từ đó cho đến thời Minh Trị, dòng họ Quy Tỉnh (龜井, Kamei) thống lãnh toàn Phiên. Chính Củ được chính quyền Mạc Phủ tín nhiệm sâu sắc, nhưng lại chế đột ngột vào năm 1619 (Nguyên Hòa 5). Quy Tỉnh Tư Chính (龜井茲政, Kamei Koremasa), người kế thế đời thứ hai của dòng họ này, lại quá nhỏ, nên tạo ra những xáo động trong Phiên; nhưng may nhờ trung thần Đa Hồ Chơn Thanh (多胡眞清) chủ đạo, khống chế phân tranh nội bộ và dốc lực xác lập nền chính trị của Phiên được ổn định. Đến thời của Quy Tỉnh Củ Hiền (龜井矩賢, Kamei Norikata), Phiên chủ đời thứ 8, sáng lập ra trường học Dưỡng Lão Quán (養老館) và mãi cho đến nay trường này vẫn còn. Vị Phiên chủ đời cuối cùng là Quy Tỉnh Tư Giám (龜井茲監, Kamei Koremi) thực hành cải cách và trọng dụng nhân tài có năng lực. Hơn nữa, ông còn tin thờ Thần Đạo và dốc toàn lực phát triển quốc học. Vào năm 1867 (Khánh Ứng [慶應] 3), ngay trước khi chuyển qua thời Minh Trị, nhân cuộc đàn áp tín đồ Thiên Chúa Giáo của chính phủ mới, các tín đồ bị lưu đày ở các địa phương. Ngay như 158 người tín đồ của tôn giáo này cũng bị lưu đày và khảo vấn khốc liệt ở Phiên Tân Hòa Dã; cho nên Phiên này chuyển vào thời kỳ u ám nhất. Đến tháng 7 năm 1871 (Minh Trị [明治] 4), Phiên bị phế bỏ và chuyển nhập vào Shimane-ken (島根縣). Lịch đại chư vị Phiên chủ của Phiên Tát Ma có 12 người, gồm: (1) Phản Khi Trực Thạnh (坂崎直盛, Sakazaki Naomori); (2) Quy Tỉnh Chính Củ (龜井政矩, Kamei Masanori); (3) Quy Tỉnh Tư Chính (龜井茲政, Kamei Koremasa); (4) Quy Tỉnh Tư Thân (龜井茲親, Kamei Korechika); (5) Quy Tỉnh Tư Mãn (龜井茲滿, Kamei Koremitsu); (6) Quy Tỉnh Tư Diên (龜井茲延, Kamei Korenobu); (7) Quy Tỉnh Tư Dận (龜井茲胤, Kamei Koretane); (8) Quy Tỉnh Củ Trinh (龜井矩貞, Kamei Norisada); (9) Quy Tỉnh Củ Hiền (龜井矩賢, Kamei Norikata); (10) Quy Tỉnh Tư Thượng (龜井茲尚, Kamei Korenao); (11) Quy Tỉnh Tư Phương (龜井茲方, Kamei Korekata); và (12) Quy Tỉnh Tư Giám (龜井茲監, Kamei Koremi).
(三尊): hay Tam Tôn Phật (三尊佛); tức lấy đấng Trung Tôn ở giữa làm chủ và có hai vị hầu hai bên. Hình thức này phát xuất từ dạng thức Nhất Quang Tam Tôn (一光三尊) của Ấn Độ. Thông thường, đấng Trung Tôn là Phật Thích Ca (s: Śākya, p: Sakya, 釋迦), bên trái là Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師), bên phải là Phật Di Đà (s: Amitāyus, Amitābha; 彌陀). Ngoài ra, còn có hình thức một Phật hai Bồ Tát hay Minh Vương hầu hai bên. Xưa nay Tam Tôn vốn có hình thức nhất định, như Phật Thích Ca cùng với hai vị đệ tử Thanh Văn là Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 迦葉), A Nan (s: Ānanda, 阿難); hay Phật Thích Ca với hai Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) và Văn Thù (s: Mañjuśrī, 文殊), được gọi là Thích Ca Tam Tôn (釋迦三尊). Phật Di Đà với hai Bồ Tát Quan Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) và Đại Thế Chí (s: Mahāsthāmaprāpta, 大勢至) được gọi là Di Đà Tam Tôn (彌陀三尊) hoặc Tây Phương Tam Thánh (西方三聖). Dược Sư Như Lai cùng với hai Bồ Tát Nhật Quang (s: Sūryaprabha, 日光) và Nguyệt Quang (s: Candraprabha, 月光), được gọi là Dược Sư Tam Tôn (藥師三尊); hoặc Dược Sư Như Lai cùng với hai Bồ Tát Dược Vương (s: Bhaiṣajyarāja, 藥王) và Dược Thượng (s: Bhaiṣajyasamudgata, 藥上). Cũng có trường hợp Bát Nhã Bồ Tát (般若菩薩) với hai vị trời Phạm Thiên (s: Braḥma, 梵天) và Đế Thích (s: Indra, p: Inda, 帝釋). Bất Động Minh Vương (s: Acalanātha, 不動明王) với hai đồng tử Chế Tra Ca (s: Ceṭaka, 制吒迦) và Căng Yết La (s: Kiṅkara, 矜羯羅), v.v. Như trong Cư Sĩ Truyện (居士傳, CBETA No. 1646) quyển 22, phần Dương Thứ Công Vương Mẫn Trọng Truyện (楊次公王敏仲傳) có đoạn: “Quy mạng Chánh Biến Tri, Như Lai diệu pháp tạng, thập phương đại Bồ Tát, Tam Tôn chơn Thánh chúng, ngã kim ư pháp bảo, nguyện tác thắng diệu duyên (歸命正遍知、如來妙法藏、十方大菩薩、三尊真聖眾、我今於法寶、願作勝妙緣, quy kính Chánh Biến Tri, Như Lai pháp tạng mầu, mười phương đại Bồ Tát, Tam Tôn các bậc Thánh, con nay nơi pháp bảo, nguyện tạo nhân duyên lành).”
(天台宗, Tendai-shū): tên gọi của một trong 13 tông phái lớn của Phật Giáo Trung Quốc, học phái lấy Thiên Thai Trí Giả Đại Sư Trí Khải (天台智者大師智顗, 538-597) của Trung Quốc làm vị Cao Tổ, lấy Truyền Giáo Đại Sư Tối Trừng (傳敎大師最澄, Saichō, 767-822) của Nhật làm Tông Tổ. Tông này còn được gọi là Pháp Hoa Viên Tông (法華圓宗) hay Thiên Thai Pháp Hoa Tông (天台法華宗). Chính vị tổ sư của tông này là Trí Khải đã từng sống ở núi Thiên Thai, nên lấy tên núi này đặt tên cho tông phái của mình. Tông này dựa trên tông chỉ của Pháp Hoa Kinh, lấy Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎) làm giáo tướng, rồi lấy Thập Thừa Quán Pháp (十乘觀法), Nhất Niệm Tam Thiên (一念三千), Thập Giới Hỗ Cụ (十界互具), Chư Pháp Thật Tướng (諸法實相) làm quán tâm mà tu tập. Ở Trung Quốc,trước thời Trí Khải có Huệ Văn (慧文) và Huệ Tư (慧思), sau này Trí Khải đã để lại rất nhiều trước tác như Tam Đại Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa (三大部法華玄義), Pháp Hoa Văn Cú(法華文句), Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀),v.v. Tiếp theo đó trải qua các đời của Quán Đảnh (觀頂), Trí Uy (智威), Huệ Uy (慧 威), Huyền Lãng (玄朗), cho đến Lục Tổ Kinh Khê Trạm Nhiên (湛然) đã tiến hành chú thích rất nhiều kinh điển và làm cho tông này hưng thịnh tột độ. Đến dưới thời vị tổ thứ 12 là Thanh Tủng (清竦) có hai nhân vật Nghĩa Tịch (義寂) và Chí Nhân (志因); từ đó tông này chia thành 2 phái là Sơn Gia (山家) và Sơn Ngoại (山外). Phái Sơn Gia có Trí Lễ (智禮) xuất hiện và đã nỗ lực phục hưng tông phong. Đối với trường hợp Nhật Bản thì cả 3 bộ kinh luận của Thiên Thai Đại Sư đều được truyền vào nhưng không phát triển cho mấy; sau này Truyền Giáo Đại Sư Tối Trừng mới học giáo lý này, sang nhà Đường cầu pháp và trực tiếp được chân truyền, vì thế ông được xem như là vị tổ khai sáng ra Thiên Thai Tông Nhật Bản. Đối với Thiên Thai Tông của Nhật, ngoài Thiên Thai Viên Giáo ra còn có sự hợp nhất của Thiền pháp, Viên Đốn Giới, và Mật Giáo nữa. Đây chính là đặc thù nỗi bật nhất của Thiên Thai Tông Nhật Bản, khác với Thiên Thai Tông của Trung Quốc. Đặc biệt từ sau thời của Từ Giác Đại Sư Viên Nhân (慈覺大師圓仁) và Trí Chứng Đại Sư Viên Trân (智証大師圓珍) thì yếu tố mang tính Mật Giáolại càng mạnh thêm. Tuy nhiên, về sau Phái Sơn Môn (山門派) của Từ Giác (慈覺) lấy trung tâm là Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji) trên Tỷ Duệ Sơn, còn Phái Tự Môn (寺門派) của Trí Chứng (智証) lấy Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) làm trung tâm, bắt đầu phân liệt và tranh giành nhau thế lực. Bên cạnh đó lại xuất hiện Thiên Thai Luật Tông (天台律宗) của Phái Chơn Thạnh (眞盛派), bắt đầu tách riêng ra khỏi sơn môn vào cuối thế kỷ thứ 15. Chính Đạo Nguyên (道元, Dōgen), Vinh Tây (榮西, Eisai), v.v., tổ sư khai sáng các tông phái Thiền của Nhật sau này, cũng đã từng xuất gia theo Thiên Thai Tông, và cũng từ đây mà chuyển hướng sang Thiền. Sau khi vị Tông Tổ qua đời, nội bộ mâu thuẩn nhau và các dòng phái phân chia rõ rệt. Trong đó, có ba dòng căn bản nhất của Thai Mật là Dòng Căn Bản Đại Sư (根本大師流), Dòng Từ Giác Đại Sư (慈覺大師流) và Dòng Trí Chứng Đại Sư (智証大師流). Trong ba dòng trên thì dòng của Từ Giác Đại Sư là dòng hưng thạnh nhất, rồi từ hai dòng nầy lại xuất hiện ra hai nhân vật nổi tiếng là Hoàng Khánh (皇慶) ở Đông Tháp Nam Cốc và Giác Siêu (覺超) ở Hoành Xuyên (横川). Sau nầy, hai vị nầy lại phân chia thành hai dòng khác gọi là Dòng Cốc (谷流) và Dòng Xuyên (川流). rồi từ hai dòng nầy, lại phân chia thành 13 chi nhánh nhỏ khác, gọi chung là 13 dòng Thai Mật. Đồng thời với sự phân phái mạnh mẽ của Thiên Thai Mật Giáo thì Thiên Thai Viên Giáo vốn lấy giáo học của vị Tông Tổ làm trung tâm đã phát triển rõ rệt. Khởi đầu là hai vị môn hạ tuyệt bích của Từ Huệ Đại Sư Lương Nguyên (良源) là Huệ Tâm Viện Nguyên Tín (慧心院源信) và Đàn Na Viện Giác Vận (檀那院覺運). Họ lấy tên mình đặt cho hai dòng phái là Dòng Huệ Tâm và Đàn Na. Hai dòng nầy lại phân chia thành 8 dòng khác, gọi là Huệ Đàn Bát Lưu (慧檀八流). Theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản, hiện tại trong hệ Thiên Thai có các tông phái như sau: (1) Thiên Thai Tông (天台宗, 3,349 ngôi chùa), (2) Thiên Thai Tự Môn Tông (天台寺門宗, 235 ngôi chùa), (3) Thiên Thai Chơn Thạnh Tông (天台眞盛宗, 426 ngôi chùa), (4) Bổn Sơn Tu Nghiệm Tông (本山修驗宗, 218 ngôi chùa), (5) Kim Phong Sơn Tu Nghiệm Bổn Tông (金峰山修驗本宗, 211 ngôi chùa), (6) Hòa Tông (和宗, 29 ngôi chùa), (7) Phấn Hà Quan Âm Tông (粉河觀音宗, 5 ngôi chùa), (8) Vũ Hắc Sơn Tu Nghiệm Bổn Tông (羽黑山修驗本宗, 23 ngôi chùa), (9) Thánh Quan Âm Tông (聖觀音宗, 26 ngôi chùa). Một số ngôi chùa trung tâm nổi tiếng của tông này là Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji, Shiga-ken), Trung Tôn Tự (中尊寺, Chūson-ji, Iwate-ken), Luân Vương Tự (輪王寺, Rinnō-ji, Tōchigi-ken), Khoan Vĩnh Tự (寛永寺, Kanei-ji, Tōkyō-to), Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji, Nagano-ken), Tư Hạ Viện (滋賀院, Shiga-in), Diệu Pháp Viện (妙法院, Myōhō-in, Kyōto-shi), Tam Thiên Viện (三千院, Sanzen-in, Kyōto-shi), Thanh Liên Viện (青蓮院, Shōren-in, Kyōto-shi), Mạn Thù Viện (曼殊院, Manshu-in, Kyōto-shi), Tỳ Sa Môn Đường (毘沙門堂, Bishamon-dō, ), Mao Việt Tự (毛越寺, Mōtsū-ji, Iwate-ken), Thâm Đại Tự (深大寺, Jindai-ji, Tōkyō-to), Quang Tiền Tự (光前寺, Kōzen-ji, Nagano-ken), Thủy Gian Tự (水間寺, Mizuma-dera, Ōsaka-fu), (圓敎寺, Engyō-ji, Hyōgo-ken), v.v.
(s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦): Đế (s: satya, p: sacca, 諦) ở đây nghĩa là chân thật, bất hư, chân lý. Tứ Đế chỉ cho 4 loại chân lý đúng dắn, không sai lầm, không hư dối, gồm: Khổ (苦), Tập (集), Diệt (滅) và Đạo (道); còn gọi là Tứ Chân Đế (四眞諦); 4 chân lý này do bậc thánh thấy được nên gọi là Tứ Thánh Đế (四聖諦), Tứ Diệu Đế (四妙諦). Đại thể, Tứ Đế là Phật Giáo dùng để giải thích hiện tượng vũ trụ theo quy nạp của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣), là đại cương giáo nghĩa của Phật Giáo Nguyên Thủy, là bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật. Theo thứ tự, 4 chân lý này là Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Thánh Đế (苦集聖諦), Khổ Diệt Thánh Đế (苦滅聖諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Khổ Tập Đế (苦習諦), Khổ Diệt Đế (苦滅諦), Khổ Diệt Đạo Thánh Đế (苦滅道聖諦); hay Khổ Đế (苦諦), Khổ Tập Đế (苦集諦), Khổ Tận Đế (苦盡諦), Khổ Xuất Yếu Đế (苦出要諦); hoặc Khổ Thánh Đế (苦聖諦), Tập Thánh Đế (集聖諦), Chơn Thánh Đế (眞聖諦), Đạo Thánh Đế (道聖諦). Trong đó, Khổ và Tập biểu thị quả và nhân của thế giới mê lầm; Diệt và Đạo biểu thị quả và nhân của thế giới chứng ngộ; nghĩa là quả của thế gian Hữu Lậu là Khổ Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Diệt Đế; nhân của thế gian Hữu Lậu là Tập Đế, quả của xuất thế gian Vô Lậu là Đạo Đế. Theo Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 7, Phân Biệt Thánh Đế Kinh (分別聖諦經), A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận (阿毘達磨大毘婆沙論, Taishō Vol. 27, No. 1545) quyển 77, Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận (大乘阿毘達磨雜集論, Taishō Vol. 31, No. 1606) quyển 7, v.v., cụ thể Tứ Đế là: (1) Khổ Đế (s: duḥkha-satya, p: dukkha-sacca, 苦諦), còn gọi là Khổ Thánh Đế (s: duḥkhārya-satya, 苦聖諦); khổ tức chỉ trạng thái bức bách thân tâm khổ não; mọi sự vật trên thế gian, dù hữu tình hay chẳng phải hữu tình, đều phải chịu khổ; hết thảy thế gian bản chất là khổ. Khổ Đế tức là chân lý về cái khổ thật sự liên quan đến vấn đề sanh tử. (2) Tập Đế (s: samudaya-satya, p: samudaya-sacca, 集諦), còn gọi là Tập Thánh Đế (s: samudayārya-satya, 集聖諦); tập đây nghĩa là sự thật về tất cả phiền não hoặc nghiệp thật sự có thể chiêu tập quả của khổ sanh tử trong Ba Cõi. Tập Đế là chân lý liên quan đến sự sanh khởi cũng như căn nguyên các nỗi khổ của con người trên cõi đời này. (3) Diệt Đế (s: nirodha-satya, p: nirodha-sacca, 滅諦), còn gọi là Diệt Thánh Đế (s: nirodhārya-satya, 滅聖諦); diệt ở đây nghĩa là tịch diệt, vắng lặng, thật sự đoạn trừ căn bản của khổ là ái dục thì sẽ được diệt khổ, có thể nhập vào cảnh giới Niết Bàn. Diệt Đế là chân lý liên quan đến sự diệt tận Khổ và Tập. (4) Đạo Đế (s: mārga-satya, p: magga-sacca, 道諦), còn gọi là Đạo Thánh Đế (s: mārgārya-satya, 道聖諦); đạo nghĩa là có thể thông suốt, tức là con đường diệt khổ, như Chánh Kiến (正見), Chánh Tư Duy (正思惟), v.v., của Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道); nếu nương vào đây mà tu hành, tức có thể siêu thoát hai sự thật Khổ và Tập, đạt đến cảnh giới Niết Bàn vắng lặng. Đạo Đế là chân lý liên quan đến Bát Chánh Đạo ấy. Sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Tứ Đế này cho 5 vị Tỳ Kheo, được xem như là lần chuyển Pháp Luân đầu tiên. Đây là giáo nghĩa căn bản nhất trong các giáo lý Phật Giáo, là phương pháp duy nhất dể giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Về sau, Tứ Đế được xem như là pháp của Thanh Văn; ngoại trừ Phật Giáo Nguyên Thủy thuyết về giáo lý này, trong các kinh điển của Phật Giáo Đại Thừa cũng có đề cập đến giáo thuyết này, tỷ dụ như Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘獅子吼一乘大方便方廣經, Taishō Vol. 12, No. 353), Bắc Bản Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển 12, 13, v.v., không những có giải thích theo quan điểm Đại Thừa mà còn phát huy áo nghĩa của Tứ Đế nữa. Về tự tánh của Tứ Đế, các bộ phái đều có những dị thuyết. Căn cứ A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 77, các luận sư của A Tỳ Đạt Ma (s: Abhidharma, 阿毘達磨) lấy Ngũ Uẩn (s: pañca-skandha, p: pañca-khandha, 五蘊) là Khổ Đế, nhân của Hữu Lậu là Tập Đế, pháp Trạch Diệt (s: pratisaṃkhyā-nirodha, p: patisaṅkhā-nirodha, 擇滅) là Diệt Đế, pháp Học, Vô Học là Đạo Đế. Về thứ tự hiện quán của Tứ Đế, theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 22, A Tỳ Đạt Ma Đại Tỳ Bà Sa Luận quyển 78 cho biết rằng trước quán Khổ Đế, kế đến quán Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế. Căn cứ vào Hiển Dương Thánh Giáo Luận (顯揚聖敎論, Taishō Vol. 31, No. 1602) quyển 7 Trung, Đại Thừa Phật Giáo lấy nội dung của Tứ Đế diễn thành 8 loại, gọi là Bát Đế (八諦, Tám Đế); gồm Hành Khổ Đế (行苦諦), Hoại Khổ Đế (壞苦諦), Khổ Khổ Đế (苦苦諦), Lưu Chuyển Đế (流轉諦), Tạp Nhiễm Đế (雜染諦, tương đương với Khổ Đế và Tập Đế), Lưu Tức Đế (流息諦, tương đương với Diệt Đế), Thanh Tịnh Đế (清淨諦, tương đương với Diệt Đế và Đạo Đế), Chánh Phương Tiện Đế (正方便諦, tương đương với Đạo Đế). Bên cạnh đó, Đại Sư Trí Khải của Thiên Thai Tông căn cứ vào thuyết của Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh, Đại Bát Niết Bàn Kinh lại lập ra 4 loại Tứ Đế có sâu cạn bất đồng, tương đương với 4 giáo tướng Tạng, Thông, Biệt, Viên; gồm: (1) Sanh Diệt Tứ Đế (生滅四諦), do Tạng Giáo (藏敎) thuyết ra, tùy theo việc sanh diệt Hữu Vi mà quán nhân quả của Tứ Đế là thật có sanh, diệt. (2) Vô Sanh Tứ Đế (無生四諦), hay Vô Sanh Diệt Tứ Đế (無生滅四諦), do Thông Giáo (通敎) thuyết ra, tùy theo nhân duyên các pháp tức là Không, Vô Sanh mà quán nhân quả mê ngộ của Tứ Đế, đều là không vô vốn chẳng có sanh diệt. (3) Vô Lượng Tứ Đế (無量四諦), do Biệt Giáo (別敎) thuyết ra, tùy theo trong cõi ngoài cõi với vô số sai biệt, vô số nhân, mà Tứ Đế cũng có vô lượng các tướng. (4) Vô Tác Tứ Đế (無作四諦), do Viên Giáo (圓敎) thuyết ra, tùy theo đương thể của mê ngộ tức là thật tướng, mà quán sự đối lập mâu thuẩn giữa mê với ngộ tức chẳng phải mâu thuẩn, và tất cả đều là thật tướng. Ngoài ra, Pháp Tướng Tông lấy Diệt Đế lập ra Ba Diệt Đế, gồm: Hữu Tự Tánh Diệt (有自性滅), Nhị Thủ Diệt (二取滅) và Bản Tánh Diệt (本性滅); đối với Đạo Đế thì lập ra Ba Đạo Đế, gồm: Biến Tri Đạo (徧知道), Vĩnh Đoạn Đạo (永斷道) và Tác Chứng Đạo (作證道). Trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao (圓覺經大疏釋義鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 9, No. 245) quyển 3 có đoạn rằng: “Hữu Khổ khả tri, hữu Tập khả đoạn, hữu Diệt khả chứng, hữu Đạo khả tu, mê tắc Khổ Tập diệt nhi chân đạo diệt, ngộ tắc Khổ Tập diệt nhi chánh đạo sanh, hữu khả sanh diệt, cố vân Sanh Diệt Tứ Đế (有苦可知、有集可斷、有滅可證、有道可修、迷則苦集生而眞道滅、悟則苦集滅而正道生、有可生滅、故云生滅四諦, có Khổ biết được, có Tập đoạn được, có Diệt chứng được, có Đạo tu được, mê thì Khổ Tập sanh mà chân đạo diệt, ngộ thì Khổ Tập diệt mà chánh đạo sanh, có khả năng sanh diệt như vậy, nên gọi là Sanh Diệt Tứ Đế).” Hay trong Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn (釋禪波羅蜜次第法門, Taishō Vol. 46, No. 1916) quyển 9 cũng có đoạn: “Niệm tử tức ngộ vô thường Tứ Đế, nhược Tam Giới bệnh tận tức đắc chứng đạo (念死卽悟無常四諦、若三界病盡卽得聖道, nghĩ nhớ bệnh là ngộ vô thường Tứ Đế, nếu Ba Cõi bệnh hết tức được chứng đạo).”
(祠宇): từ đường, miếu thần. Như trong bài Đông Phương Sóc Họa Tán (東方朔畫贊) của Hạ Hầu Thậm (夏侯湛, khoảng 243-291) nhà Tây Tấn có đoạn: “Bồi hồi lộ tẩm, kiến tiên sinh chi di tượng; tiêu dao thành quách, quán tiên sinh chi từ vũ (徘徊路寢、見先生之遺像、逍遙城郭、觀先生之祠宇, bồi hồi nơi sảnh đường, thấy tiên sinh ấy di tượng; tiêu dao chốn thành quách, nhìn tiên sinh ấy từ đường).” Hay trong bài thơ Sanh Từ (生祠) của Thẩm Khâm Kỳ (沉欽圻, ?-?) nhà Thanh có câu: “Thùy vi kiến từ vũ, duy lưu hậu nhân tư (誰爲建祠宇、惟留後人思, vì ai xây miếu vũ, cho người sau nhớ hoài).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập