Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bảo thọ »»
(鐘、鍾): chuông; tên một loại pháp khí được dùng trong các tự viện Phật Giáo để báo thì giờ, tập trung tăng chúng. Tại Ấn Độ, khi triệu tập tăng chúng, người ta thường đánh loại Kiền Chùy (s: ghaṇṭā, 揵椎) bằng gỗ. Như trong Tăng Nhất A Hàm Kinh (增壹阿含經, Taishō Vol. 2, No. 125) quyển 24 có ghi lại việc đức Phật dạy tôn giả a nan đánh Kiền Chùy để tập trung đại chúng: “Nhữ kim ư lộ địa tốc kích Kiền Chùy, sở dĩ nhiên giả ? Kim thất nguyệt thập ngũ nhật thị thọ tuế chi nhật (汝今於露地速擊揵椎、所以然者、今七月十五日是受歲之日, các ngươi nay ở nơi đất trống mau đánh Kiền Chùy, vì cớ sao vậy ? Vì hôm nay ngày 15 tháng 7 là ngày nhận thêm tuổi).” Chuông có hai loại chính: Phạn Chung (梵鐘) và Hoán Chung (喚鐘). (1) Phạn Chung, còn gọi là Đại Chung (大鐘, chuông lớn), Điếu Chung (釣鐘), Chàng Chung (撞鐘), Hồng Chung (洪鐘), Kình Chung (鯨鐘), Bồ Lao (蒲牢), Hoa Kình (華鯨), Hoa Chung (華鐘), Cự Chung (巨鐘), v.v.; thông thường cao khoảng 150 cm, đường kính khoảng 60 cm; được treo trên lầu chuông, dùng để triệu tập đại chúng, hay để báo thời khắc sáng tối. Phần trên của Phạn Chung có đầu rồng, được gọi là điếu thủ (釣手, tay câu). Phần bên dưới có hình hai tòa hoa sen tương đối, được gọi là bát diệp (八葉, tám cánh). Trong Thiền lâm, chuông này được dùng để thông báo thời gian Tọa Thiền vào đầu đêm, nên có tên là Định Chung (定鐘); hay để thông báo đại chúng vào Tăng Đường, được gọi là Nhập Đường Chung (入堂鐘). Về ngữ nghĩa Bồ Lao, Lý Thiện (李善, 630-689), học giả thời nhà Đường, có chú dẫn lời của Tiết Tông (薛綜, ?-243) nhà Ngô thời Tam Quốc rằng: “Hải trung hữu đại ngư viết Kình, hải biên hựu hữu thú danh Bồ Lao; Bồ Lao tố úy Kình, Kình ngư kích Bồ Lao, triếp dại minh; phàm chung dục linh thanh đại giả, cố tác Bồ Lao ư thượng, sở dĩ chàng chi giả vi Kình ngư (海中有大魚曰鯨、海邊又有獸名蒲牢、蒲牢素畏鯨、鯨魚擊蒲牢、輒大鳴、凡鐘欲令聲大者、故作蒲牢於上、所以撞之者爲鯨魚, trong biển có con cá lớn gọi là Kình, ven biển lại có con thú tên là Bồ Lao; Bồ Lao chẳng sợ cá Kình, cá Kình đánh Bồ Lao, thường tạo ra tiếng vang lớn; hễ chuông muốn có âm thanh lớn thì nên tạc hình con Bồ Lao lên trên, vì vậy vật để đánh chuông là cá Kình).” Cho nên, đùi đánh chuông thường được khắc hình con cá Kình. Theo Thăng Am Ngoại Tập (升庵外集) quyển 95 của Dương Thận (楊愼, 1488-1559) nhà Minh cho biết rằng tục truyền rồng sinh ra chín con, con thứ ba tên là Bồ Lao, hình như con rồng nhưng nhỏ; và nay chính là hình con rồng trên đầu chuông. (2) Hoán Chung, còn gọi là Bán Chung (半鐘, chuông bằng một nữa), Tiểu Chung (小鐘, chuông nhỏ); thông thường cao khoảng 60 đến 80 cm, dùng để thông báo bắt đầu tiến hành pháp hội, v.v., nên được gọi là Hành Sự Chung (行事鐘). Tại Trung Quốc, từ xưa đã có chế tạo chuông bằng đồng, nhưng không rõ nguồn gốc. Trong Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集, Taishō Vol. 52, No. 2103) quyển 28 cho biết rằng vào năm 566 (Thiên Hòa [天和] thứ 5) nhà Bắc Chu, có bài Chu Võ Đế Nhị Giáo Chung Minh (周武帝二敎鐘銘); Đường Thái Tông Đại Hưng Thiện Tự Chung Minh (唐太宗大興善寺鐘銘); Đường Đông Cung Hoàng Thái Tử Tây Minh Tự Chung Minh (唐東宮皇太子西明寺鐘銘), v.v. Theo Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, Truyện Trí Hưng (智興傳), vào năm 609 (Đại Nghiệp [大業] thứ 5) nhà Tùy, trong khi trú tại Thiền Định Tự (禪定寺) ở Kinh Sư, Trí Hưng đã từng giữ chức Thời Chung. Theo thông tin trên, việc tạo lập Phạn Chung từ thời Bắc Chu trở đi đã bắt đầu thịnh hành. Ngoài ra, chuông ở Hàn Sơn Tự (寒山寺), Tô Châu (蘇州), nhờ bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊) của thi nhân Trương Kế (張繼, ?-779) nhà Đường mà trở nên nổi tiếng. Căn cứ vào tác phẩm Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Ký (入唐求法巡禮記) quyển 3 của Viên Nhân (圓仁, Ennin, 794-864), vị tăng Nhật Bản sang nhà Đường cầu pháp, tại Ngũ Đài Sơn (五臺山) có hang lầu chuông với chuông vàng, lầu báu, là nơi Bồ Tát Văn Thù thường thị hiện. Tại Nhật Bản, hiện còn lưu lại một số chuông được đưa từ Trung Quốc vào, như chuông ở Vũ Tá Thần Cung (宇佐神宮, Usa Jingū) vùng Phong Tiền (豐前, Buzen); ở Ba Thượng Cung (波上宮, Nami-no-uegū) vùng Lưu Cầu (琉球, Ryūkyū); ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi), v.v.; chuông hiện tồn tối cổ được đúc vào năm 698 (Văn Võ Thiên Hoàng [文武天皇] thứ 2), và bảo lưu tại Diệu Tâm Tự (妙心寺, Myōshin-ji), Kyoto. Chuông đối với việc tu hành có công đức rất lớn và đóng vài trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống tâm linh của tín đồ Phật Giáo. Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, phần Chuông, có giải thích rằng: “Đại Chung, tùng lâm hiệu lịnh tư thỉ dã, hiểu kích tắc phá trường dạ cảnh thùy miên, mộ kích tắc giác hôn cù sơ minh muội (大鍾、叢林號令資始也、曉擊則破長夜警睡眠、慕擊則覺昏衢疏冥昧, chuông lớn là vật khởi đầu hiệu lịnh trong tùng lâm; đánh buổi sáng thì phá tan sự đêm dài, đánh thức ngủ say; đánh buổi tối thì làm tỉnh thức con đường mê muội, tối tăm).” Trong Sa Di Luật Nghi Tỳ Ni Nhật Dụng Hợp Tham (沙彌律儀毗尼日用合參, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1120) lại dạy rằng: “Hồng chung chấn hưởng giác quần mê, thanh biến thập phương vô lượng độ, hàm thức quần sanh phổ văn tri, bạt trừ chúng sanh trường dạ khổ, Lục Thức thường hôn chung dạ khổ, vô minh bị phú thức mê tình, tĩnh dạ văn chung khai giác ngộ, di thần tịnh sát đắc thần thông (洪鐘震響覺群迷、聲遍十方無量土、含識群生普聞知、拔除眾生長夜苦、六識常昏終夜苦、無明被覆識迷情、靜夜聞鐘開覺悟、怡神淨剎得神通, Hồng chung vang vọng tỉnh quần mê, tiếng khắp mười phương vô lượng cõi, nhận thức quần sanh khắp nghe biết, đoạn trừ chúng sanh đêm dài khổ, Sáu Thức thường mờ suốt đêm khổ, vô minh che lấp cõi mê tình, đêm lắng nghe chuông bày giác ngộ, hân hoan trong sạch chứng thần thông).” Lại nữa, trong Thích Môn Chánh Thống (釋門正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 75, No. 1513) quyển 4 có dẫn lời dạy của Kinh Tăng Nhất A Hàm rằng: “Nhược đả chung thời, nhất thiết ác đạo chư khổ, tinh đắc đình chỉ (若打鐘時、一切惡道諸苦、幷得停止, nếu khi đánh chuông, hết thảy các nỗi khổ của đường ác, đều được dừng lại).” Trong Phú Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện (付法藏因緣傳, Taishō Vol. 50, No. 2058) quyển 5 có ghi lại câu chuyện quốc vương nước Nguyệt Chi (月支) là Chiên Đàn Kế Nặc Tra (栴檀罽昵吒) cùng giao chiến với nước An Tức (安息), sát hại 9 ức người. Do vì nhân ác đó, nhà vua sau khi chết bị đọa làm thân con cá có ngàn cái đầu, vòng kiếm quay quanh thân chém đứt từng đầu, nhưng rồi lại sanh ra đầu khác; đau đớn vô cùng, không thể nào kể xiết. Tuy nhiên, mỗi khi nghe tiếng chuông thì vòng kiếm kia dừng lại; cho nên nhà vua cầu xin vị La Hán thường xuyên đánh chuông. Vị này thương xót, đánh chuông liên tục trong vòng 7 ngày thì không còn chịu khổ nữa. Trong Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, Taishō Vol. 50, No. 2060) quyển 29, phần Đường Kinh Sư Đại Trang Nghiêm Tự Thích Trí Hưng Truyện (唐京師大莊嚴寺釋智興傳) có đề cập đến câu chuyện người anh của sư trên đường cùng với nhà vua đến Bành Thành (彭城) thì đột nhiên qua đời giữa đường. Người này về báo mộng cho vợ biết rằng mình đã chết, nay đọa xuống Địa Ngục, chịu khổ báo vô cùng, nên bảo rằng: “Lại dĩ kim nguyệt sơ nhật mông Thiền Định Tự tăng Trí Hưng minh chung phát thanh hưởng chấn Địa Ngục, đồng thọ khổ giả nhất thời giải thoát (賴以今月初日蒙禪定寺僧智興鳴鍾發聲響振地獄、同受苦者一時解脫, vào ngày mồng một tháng này, nhờ tăng sĩ Trí Hưng ở Thiền Định Tự đánh chuông phát ra tiếng vang chấn động Địa Ngục, khiến cho người chịu khổ nhất thời được giải thoát).” Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 1 ghi lại câu chuyện vua Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của vương quốc Kiện Đà La (s, p: Gandhāra, 健駄羅) nhận lời thỉnh cầu của con rồng ác, kiến lập chùa chiền, đánh chuông và nhờ đó mà tâm sân hận của rồng được tiêu tan. Vì tầm quan trọng của tiếng chuông như vậy, trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu Hương Nhũ Ký (毗尼日用切要香乳記, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1116) trích dẫn lời dạy của Tạp Thí Dụ Kinh (雜譬喻經) về thái độ của người nghe chuông: “Sở tại văn chung thanh, ngọa giả tất tu khởi, hiệp chưởng phát thiện tâm, hiền thánh giai hoan hỷ (所在聞鐘聲、臥者必須起、合掌發善心、賢聖皆歡喜, nơi mình nghe tiếng chuông, người nằm phải nên dậy, chấp tay phát thiện tâm, hiền thánh đều hoan hỷ).” Cũng điển tịch này có dẫn lời của cổ đức rằng: “Văn chung ngọa bất khởi, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, hậu thế đọa xà thân (聞鐘臥不起、護法善神嗔、現前減福慧、後世墮蛇身, nghe chuông nằm không dậy, hộ pháp thiện thần sân, hiện tiền giảm phước huệ, đời sau đọa rắn thân).” Trong Thiền môn có các bài kệ nguyện chuông rất phổ biến như: “Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới, Thiết Vi u ám tất giai văn, văn trần thanh tịnh chứng viên thông, nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (願此鐘聲超法界、鐵圍幽暗悉皆聞、聞塵清淨證圓通、一切眾生成正覺, nguyện tiếng chuông này siêu pháp giới, Thiết Vi tăm tối thảy đều nghe, nghiệp trần trong sạch chứng viên thông, tất cả chúng sanh thành chánh giác).”; hay “Văn chung thanh phiền não khinh, trí huệ trưởng bồ đề sinh, ly Địa Ngục xuất hỏa khanh, nguyện thành Phật độ chúng sinh (聞鐘聲煩惱輕、智慧長菩提生、離地獄出火坑、願成佛度眾生, nghe tiếng chuông phiền não tan, trí huệ lớn bồ đề sanh, lìa Địa Ngục ra hỏa than, nguyện thành Phật độ chúng sanh).” Theo nghiên cứu cho thấy rằng trong bộ Toàn Đường Thi (全唐詩) cũng như Toàn Đường Thi Bổ Biên (全唐詩補編), có gần 1100 câu thơ về tiếng chuông, về Phạn Chung có 300 câu, cho ta thấy tầm quan trọng của tiếng chuông chùa như thế nào. Xin giới thiệu một số tác phẩm liên quan đến tiếng chuông như sau. Trong bài Trường Thọ Tự Xán Công Viện Tân Trứu Tỉnh (長壽寺粲公院新甃井) của Lý Kì (李頎, 690-751) có đoạn: “Tăng phòng lai trú cửu, lộ tỉnh mỗi đồng quan, bạch thạch bảo tân trứu, thương đài y cựu lan, không bình uyển chuyển hạ, trường cảnh lộc lô bàn, cảnh giới nhân tâm tịnh, tuyền nguyên kiến để hàn, chung minh thời quán đảnh, đối thử nhật nhàn an (僧房來往久、露井每同觀、白石抱新甃、蒼苔依舊欄、空瓶宛轉下、長綆轆轤盤、境界因心淨、泉源見底寒、鐘鳴時灌頂、對此日閒安, tăng phòng đến đây ở, giếng nước ngày mỗi xem, đá trắng che mặt giếng, rêu xanh vẫn lan cùng, gàu nước buông thong thả, dây dài theo trục xoay, cảnh giới theo tâm lắng, suối nguồn tận đáy trong, chuông ngân dài quán đảnh, đối diện ngày an nhàn).” Trương Kế có làm bài Phong Kiều Dạ Bạc (楓橋夜泊): “Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hỏa đối sầu miên, Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (月落烏啼霜滿天、江楓漁火對愁眠、姑蘇城外寒山寺、夜半鐘聲到客船, trăng tà chiếc quạ kêu sương, lửa chài cây bến, sầu vương giấc hồ, thuyền ai đậu bến Cô Tô, nửa đêm nghe tiếng chuông Chùa Hàn San).” Như trong Vãn Đường Chung Thanh (晚唐鐘聲) của Phó Đạo Bân (傅道彬) có nêu một đoạn trong bài thơ Du Long Môn Phụng Tiên Tự (遊龍門奉先寺) của Đỗ Phủ (杜甫, 712-770): “Dĩ tùng Chiêu Đề du, cánh túc Chiêu Đề cảnh, âm hác sanh hư lại, nguyệt lâm tán thanh ảnh, thiên khuyết tượng vĩ bức, vân ngọa y thường lãnh, dục giác văn thần chung, linh nhân phát thâm tỉnh (已從招提遊、更宿招提境、陰壑生虛籟、月林散清影、天闕象緯逼、雲臥衣裳冷、欲覺聞晨鐘、令人發深省, từ độ thăm Chiêu Đề, lại luyến cảnh Chiêu Đề, hang tối vang tiếng vọng, rừng trăng bóng tỏ mờ, cổng trời bóng voi hiện, mây nằm áo lạnh băng, muốn dậy nghe chuông sớm, khiến người tỉnh thức sâu).” Trong bài Kinh Thiếu Lâm Tinh Xá Ký Đô Ấp Thân Hữu (經少林精舍寄都邑親友) của Vi Ứng Vật (韋應物, 737-792) có câu: “Xuất hi thính vạn lại, nhập lâm trạc u tuyền, minh chung sanh đạo tâm, mộ khánh không vân yên (出巘聽萬籟、入林濯幽泉、鳴鐘生道心、暮磬空雲煙, ra hang vạn dây vướng, vào rừng rửa suối thiêng, chuông ngân sanh đạo tâm, khánh chiều mây khói quyện).” Lô Luân (盧綸, 739-799) có làm bài Thù Quý Đoan Công Dã Tự Bệnh Cư Kiến Ký (酬李端公野寺病居見寄): “Dã tự chung hôn sơn chánh âm, loạn đằng cao trúc thủy thanh thâm, điền phu tựu hướng hoàn y thảo, dã trĩ kinh phi bất quá lâm, trai mộc tạm tư đồng tĩnh thất, thanh luy dĩ giác trợ Thiền tâm, tịch mịch nhật trường thùy vấn tật, liệu quân duy thủ cổ phương tầm (野寺鐘昏山正陰、亂藤高竹水聲深、田夫就餉還依草、野雉驚飛不過林、齋沐暫思同靜室、清羸已覺助禪心、寂寞日長誰問疾、料君惟取古方尋, chùa hoang chuông chiều núi tỏa râm, dây leo trúc bám tiếng nước trầm, nông phu cất bước theo lối cỏ, gà đồng kinh hoảng bay qua rừng, chay tịnh ưu tư cùng tịnh thất, gầy xanh mới rõ ấy Thiền tâm, vắng lặng tháng ngày ai hỏi bệnh, khuyên người thôi chớ nhọc công tìm).” Hay trong bài Du Vân Tế Tự (遊雲際寺) của Chương Hiếu Tiêu (章孝標) có câu: “Vân lãnh phù danh khứ, chung chàng đại mộng tỉnh, mang mang sơn hạ sự, mãn nhãn tống lưu bình (雲領浮名去、鐘撞大夢醒、茫茫山下事、滿眼送流萍, mây núi phù danh bỏ, chuông ngân đại mộng tỉnh, mênh mang chuyện đời mặc, trước mắt bèo dạt trôi).” Trong bài Tặng Thiên Khanh Tự Thần Lượng Thượng Nhân (贈天卿寺神亮上人) của Triệu Hỗ (趙嘏, 806-853) cũng có đề cập đến tiếng chuông: “Ngũ khán xuân tận thử giang phần, hoa tự phiêu linh nhật tự huân, không hữu từ bi tùy vật niệm, dĩ vô tung tích tại nhân quần, nghênh thu nhật sắc diêm tiền kiến, nhập dạ chung thanh trúc ngoại văn, tiếu chỉ bạch liên tâm tự đắc, thế gian phiền não thị phù vân (五看春盡此江濆、花自飄零日自曛、空有慈悲隨物念、已無蹤跡在人群、迎秋日色簷前見、入夜鐘聲竹外聞、笑指白蓮心自得、世間煩惱是浮雲, năm bận đón xuân nơi bến sông, ngày nắng chói chan hoa phiêu bồng, không tâm từ bi theo vật nhớ, đã chẳng dấu tích chốn nhân quần, đón thu ngày mới trước thềm thấy, đêm về chuông vọng trúc ngoài vang, cười chỉ trắng sen lòng tự đắc, thế gian phiền não ấy phù vân).” Hay như trong bài Quá Hương Tích Tự (過香積寺) của Vương Duy (王維, ?-761) cũng vậy: “Bất tri Hương Tích Tự, sổ lí nhập vân phong, cổ mộc vô nhân kính, thâm sơn hà xứ chung, tuyền thanh yến nguy thạch, nhật sắc lãnh thanh tùng, bạc mộ không đàm khúc, an Thiền chế độc long (不知香積寺、數里入雲峰、古木無人逕、深山何處鐘、泉聲咽危石、日色冷青松、薄暮空潭曲、安禪制毒龍, nào hay Hương Tích Tự, mấy dặm trong mây rừng, cây xưa không người bước, núi sâu chuông chốn nào, tiếng suối ngâm lòng đá, ngày lên lạnh tùng xanh, chiều buông trên hồ vắng, tọa Thiền chế độc long).” Tại Tây Hồ, Hàng Châu có 2 ngôi danh lam là Tịnh Từ Tự (淨慈寺) và Linh Ẩn Tự (靈隱寺). Ở Tịnh Từ Tự có một đại hồng chung rất nổi tiếng, nơi nhà bia an trí chuông có bút tích của vua Khang Hy với dòng chữ: “Nam Bình Vãn Chung (南屏晚鐘, Chuông Chiều Nam Bình).” Thi sĩ Trương Đại (張岱, ?-?) nhà Đường có làm bài thơ để diễn tả sự xuất thần nhập hóa của tiếng chuông chùa này như sau: “Dạ khí ổng Nam Bình, khinh phong bạc như chỉ, chung thanh xuất thượng phương, dạ độ không giang thủy (夜氣滃南屏、輕風薄如紙、鐘聲出上方、夜渡空江水, màn đêm trùm khắp Nam Bình, gió nhè nhẹ thổi như hình giấy manh, tiếng chuông vút tận trời xanh, buông vào đêm vắng sông thanh nghìn trùng).” Sau này dân gian vẫn có câu: “Ngọc Bình thanh chướng mộ yên phi, cam điện chung thanh lạc thúy vi (玉屏青嶂暮煙飛、紺殿鐘聲落翠微, Ngọc Bình mây khói chiều lặng bay, điện báu chuông chùa rụng sương chầy).” Về phía Việt Nam, cũng có khá nhiều bài thơ nói về tiếng chuông, như trong bài Cảnh Chùa Đọi của Nguyễn Khuyến (阮勸, 1835-1909) có đoạn: “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, sư cụ nằm chung với khói mây, chuông trưa vẳng tiếng người không biết, trâu thả sườn non ngủ gốc cây.” Trong bài Vịnh Hà Trung Tự Thi (詠河中寺詩) của Hòa Thượng Thạch Liêm (石濂, 1633-1702) cũng có đoạn diễn tả như sau: “Lục liễu thùy thùy ẩn Phạm cung, chung thanh điều đệ mãn hà phong, trúc li thảo kính phù lam yểm, thạch hác hà lâu đảo ảnh không (綠柳垂垂隠梵宮、鐘聲迢遞滿河風、竹籬草徑浮嵐掩、石壑霞樓倒影空, nép bóng chùa xưa liễu xanh non, tiếng chuông xa vẳng theo gió sông, lối cỏ bờ trúc mây khói phủ, hang đá lầu chiều bóng nghiêng lồng).” Tục ngữ dân gian Việt Nam thường có câu: “Đánh tan tục lụy hồi chuông sớm, gõ nát trần tâm tiếng mõ trưa”; hay “Gió đưa cành trúc la đà, tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Sương, mịt mù khói toả ngàn sương, nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.” Hòa Thượng Giác Tiên (1880-1936), Tổ khai sáng Chùa Trúc Lâm (竹林寺), Huế, có câu thơ: “Tuần diêm thanh khánh sao minh nguyệt, nhiễu thọ sơ chung khấu bích thiên (巡簷清磬敲明月、繞樹疏鐘扣碧天, tiếng khánh quanh nhà lay trăng sáng, cùng cây chuông sớm gõ trời xanh).” Cố Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), nguyên trú trì và khai sơn Hồng Ân Ni Tự (鴻恩尼寺) tại Huế, cũng có lưu lại bài thơ ca ngợi về nét Thiền vị của chùa Trúc Lâm như sau: “Bước đến Trúc Lâm luống chạnh lòng, chuông chùa tiếng dội khắp rừng thông, trông lên bảo tháp mây quang đãng, ngó xuống ao sen cá vẫy vùng, cảnh tịnh soi tâm tâm cũng tịnh, nước trong trăng chiếu bóng thường trong, cảnh này nếu được đem thêu vẽ, tỏa rạng ngàn năm nét Đại Hùng.”
(彌天): có hai nghĩa chính. (1) Tỷ dụ ý chí cao ngất trời. Như trong bài thơ Tống Tánh Nguyên Thượng Tọa Hoàn Thanh Phố (送性原上座還青浦) của Kim Nông (金農, 1687-1764) nhà Thanh có câu: “Thành Phật mạc giáo linh vận hậu, di thiên đắc tợ Đạo An vô (成佛莫敎靈運後、彌天得似道安無, thành Phật chớ bảo thời vận hậu, ý chí ai bằng Đạo An đây).” Từ đó, Di Thiên cũng được dùng thay thế cho Thích Đạo An (道安, 312[314]-385), nhân vật trung tâm của Phật Giáo thời Đông Tấn. Như trong bài thơ Tống Trọng Chế Đông Du Kiêm Ký Trình Linh Triệt Thượng Nhân (送仲制東遊兼寄呈靈澈上人) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu: “Kinh Châu bổn tự trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu do y nhiên (荊州本自重彌天、南朝塔廟猶依然, Kinh Châu vốn kính trọng Di Thiên, Nam Triều tháp miếu còn y nguyên).” (2) Đầy trời, ngất trời. Như trong bức Báo Đông Hải Tương Lương Quý Nhiên Thư (報東海相梁季然書) của Ứng Cừ (應璩, 190-252) nhà Ngụy thời Tam Quốc có câu: “Đốn di thiên chi võng, thu vạn nhận chi ngư (頓彌天之網、收萬仞之魚, bủa khắp trời lưới võng, thâu vạn thước cá to).” Hay trong Cổ Lâm Thanh Mậu Thiền Sư Ngữ Lục (古林清茂禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1412) quyển 5, phần Vô Lượng Thọ Phật Tượng Tán (無量壽佛像讚), có đoạn: “Chiêm lễ vô vong thập nhị thì, cố hương đoan khả dữ tâm kỳ, di thiên tướng hảo thanh lương nguyệt, ánh nhật liên khai bạch ngọc trì (瞻禮無忘十二時、故鄉端可與心期、彌天相好清涼月、映日蓮開白玉池, chiêm lễ đâu quên mười hai thời, cố hương trông ngóng tâm muôn nơi, khắp trời tướng tốt trăng trong sáng, trời tỏ sen khai ngọc trắng phơi).”
(葉縣歸省, Sekken Kisei, ?-?): nhân vật sống khoảng thời nhà Tống, vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, người vùng Kí Châu (冀州, Tỉnh Hà Nam), họ là Mại (賈). Ông xuất gia và thọ Cụ Túc giới tại Bảo thọ Viện (保壽院) vùng Dịch Châu (易州). Sau ông du hành lên phương Nam, đến tham yết Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念) ở Nhữ Châu (汝州) và được đại ngộ. Mấy năm sau, ông đến trú tại Diệp Huyện Quảng Giáo Viện (葉縣廣敎院). Ông có để lại Diệp Huyện Quảng Giáo Tỉnh Ngữ Lục (葉縣廣敎省語錄) 1 quyển.
(蓮花 hay 蓮華, renge): hoa sen. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, người ta thường cho loại hoa sen mà có rễ (củ sen) là hoa sen, nhưng ở Ấn Độ còn có thêm một loại sen nước (thủy liên) khác nữa ngoài hai thứ trên, và khi nói đến hoa sen người ta thường ám chỉ loại sen nước này nhiều hơn. Tại Ấn Độ có nhiều loại hoa sen, nhưng trong kinh điển Phật Giáo có đề cập đến 5 loại. Đó là hoa sen trắng (s, p: puṇḍarīka, âm dịch là Phân Đà Lợi Ca [分陀利迦], 白蓮), hoa sen xanh (s: utpala, p: uppala, âm dịch là Ưu Bát La [優鉢羅], 青蓮), hoa sen hồng (s: padma, p: paduma, âm dịch là Bát Đầu Ma [鉢頭摩], 紅蓮), hoa sen vàng (s, p: kumuda, âm dịch là Câu Vật Đầu [拘物頭], 黃蓮), và loại hoa sen xanh khác (s, p: nīlotpala, 青蓮). Nhưng trên thực tế thì trừ loại hoa sen trắng (puṇḍarīka) ra, loại nào cũng có màu trắng và hồng cả. Từ ngàn xưa ở Ấn Độ người ta rất yêu chuộng loại hoa sen này. Trong đạo Bà La Môn có thần thoại cho rằng từ trong lỗ rún của thần Vishnu sinh ra hoa sen, trong hoa sen có Phạm Thiên là người sáng tạo ra vạn vật. Hoa sen vốn mọc trong bùn, nhưng trồi ra khỏi bùn để sống, không bị nhiễm mùi hôi tanh của bùn nhơ, mà còn có mùi thơm trong sạch, cho nên nó được ví như là Phật tâm vốn có cũng như chư Phật và Bồ Tát thanh tịnh. Một trong những kinh điển tiêu biểu của Đại Thừa nói về hoa sen là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka, 妙法蓮華經), ví diệu pháp của Phật như là hoa sen trắng lớn. Thế giới của Kinh Pháp Hoa là Liên Hoa Tạng Thế Giới (蓮華藏世界) hay nói cho đúng là Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (s: Kusumatalagarbha-vyūhālaṃkāra-lokadhātu-samudra, 蓮華藏莊嚴世界海). Cổ Côn Pháp Sư (古崑法師) nhà Thanh có câu thơ rằng: “Nhất thanh Phật hiệu vi vi tụng, thất bảo Liên Hoa đại đại khai (一聲佛號微微誦、七寶蓮花大大開, một tiếng niệm Phật nhỏ nhỏ tụng, hoa sen bảy báu nở lớn dần).” Hay như tại Cửu Phong Thiền Tự (九峰禪寺) ở Vĩnh Gia (永嘉), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối như sau: “Hoàng kim địa thượng Bảo thọ trùng trùng tận thị tu hành giả chủng, bạch ngọc trì trung Liên Hoa đóa đóa vô phi niệm Phật nhân tài (黃金地上寶樹重重盡是修行者種、白玉池中蓮花朵朵無非念佛人栽, trên đất vàng ròng cây báu hàng hàng thảy do người tu hành trồng, trong hồ ngọc trắng hoa sen đóa đóa đều là người niệm Phật gieo).”
(s: dharma-rāja, 法王): vua pháp, tôn xưng thường dùng để chỉ cho chư Phật. Vương có nghĩa tối thắng, tự tại; đức Phật là chủ tể của Pháp, có thể giáo hóa chúng sanh một cách tự tại, nên được gọi là Pháp Vương. Như trong Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經, Taishō No. 12) quyển Hạ có câu: “Phật vi Pháp Vương, tôn siêu chúng Thánh, phổ vi nhất thiết thiên nhân chi sư (佛爲法王、尊超眾聖、普爲一切天人之師, Phật là Pháp Vương, được tôn kính hơn các bậc Thánh, là vị thầy của khắp hết thảy trời người).” Hay như trong Thích Ca Phương Chí (釋迦方誌, Taishō No. 51) có giải thích rằng: “Phàm nhân cực vị, danh viết Luân Vương; Thánh nhân cực vị, danh viết Pháp Vương (凡人極位、名曰輪王、聖人極位、名曰法王, ngôi vị cao nhất của người phàm gọi là Luân Vương, ngôi vị cao nhất của bậc Thánh là Pháp Vương).” Trong bài xưng tán đức Phật có câu: “Pháp Vương vô thượng tôn, Tam Giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, Tứ Sanh chi từ phụ (法王無上尊、三界無倫匹、天人之導師、四生之慈父, đấng Pháp Vương vô thượng, Ba Cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung Bốn Loại).” Hay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, Bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).”
(芙蓉道楷, Fuyō Dōkai, 1043-1118): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, xuất thân Phí Huyện (費縣), Nghi Châu (沂州, Tỉnh Sơn Đông), họ là Thôi (崔). Lúc nhỏ ông học phái thần tiên đạt được các bí thuật rồi đến ẩn cư tại Y Dương Sơn (伊陽山) thuộc Tỉnh Hà Nam (河南省). Lâu sau ông lên kinh sư dạo chơi, rồi xuất gia ở Thuật Thánh Viện (述聖院, tức Thuật Đài Tự [術台寺]), tôn Đức Xiêm (德暹) làm thầy. Vào năm 23 tuổi ông thọ Cụ Túc giới. Sau đó, ông đi du phương tham học, gặp được Nghĩa Thanh (義清) ở Đầu Tử Sơn (投子山) vùng Thư Châu (舒州, Tỉnh An Huy), nhân nghe lời dạy của vị này mà đại ngộ và được kế thừa dòng pháp của vị này. Sau ông từ giã thầy đến Thiều Sơn (韶山), hằng ngày thường sống với cọp beo. Vào năm thứ 5 (1082) niên hiệu Nguyên Phong (元豐), ông khai mở đạo tràng bố giáo tại Tiên Động Sơn (仙洞山), Nghi Châu. Ông đã từng sống qua các nơi như Càn Nguyên Chiêu Đề (乾元招提) vùng Tây Kinh (西京, Tỉnh Hà Nam) cũng như Đại Dương Sơn (大陽山) ở Dĩnh Châu (郢州, Tỉnh Hồ Bắc). Vào năm thứ 2 (1103) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông đến làm trú trì đời thứ hai của Sùng Ninh Bảo thọ Thiền Viện (保壽禪院) ở Đại Hồng Sơn (大洪山), Tùy Châu (隨州, Tỉnh Hồ Bắc). Năm sau, thể theo chiếu chỉ nhà vua, ông đến trú trì Thập Phương Tịnh Nhân Thiền Viện (十方淨人禪院) ở Đông Kinh (東京, Tỉnh Hà Nam), rồi vào năm đầu (1107) niên hiệu Đại Quán (大觀), ông chuyển đến Thiên Ninh Tự (天寧寺). Vào mùa xuân năm sau, ông được ban cho Tử Y và hiệu là Định Chiếu Thiền Sư (定照禪師), nhưng ông cố từ không nhận. Cũng do vì việc này mà vào mùa đông năm này, ông bị lưu đày đến Chuy Châu (淄州, Tỉnh Sơn Đông). Đến năm đầu (1111) niên hiệu Chính Hòa (政和), ông được tha tội, bèn lên Thiên Thai (天台), Nhạn Đãng (雁蕩) ngao du và khi trở về cố hương thì cha đã già yếu, nên ông dừng chân tại đây. Vị quan Xu Mật Lưu Công (劉公) dựng am thất ở Phù Dung Hồ Điền (芙蓉湖田, Tỉnh Sơn Đông), thỉnh ông đến ở và ông đã thành lập nơi đây khu tùng lâm. Vào ngày 14 tháng 5 năm thứ 8 niên hiệu Chính Hòa, ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi đời và 42 hạ lạp. Đệ tử ông có 93 người, trong đó ra đời thành công là 29 người, đặc biệt có Đơn Hà Tử Thuần (丹霞子淳) là nhân vật kiệt xuất nhất. Hiện vẫn còn lưu hành bộ Phù Dung Giai Thiền Sư Ngữ Yếu (芙蓉楷禪師語要) 2 quyển của ông.
(s: Virūḍhaka, p: Virūḷhaka, 增長天): âm dịch là Tỳ Rô Đà Ca (毘嚕陀迦), còn gọi là Tỳ Lưu Đa Thiên (毘留多天), Tỳ Lưu Ly Thiên (毘流離天), Tỷ Lưu Trà Ca Thiên (鼻溜荼迦天), Tỳ Lâu Lặc Thiên (毘樓勒天), Tỳ Lâu Lặc Ca Thiên (毘樓勒迦天), Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên (毘樓勒叉天), Nam Phương Thiên (南方天, trời ở phương Nam); là một trong 4 vị Thiên Vương, một trong 16 vị thiện thần. Vị này trú trong thành Thiện Kiến (善見), nằm lưng chừng phía Nam Tu Di Sơn (s: Sumeru, 須彌山). Thường vị này quán sát chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề (s: Jampudīpa, 閻浮提), thống lãnh chúng quỷ thần Cưu Bàn Trà (s: Kumbhāṇḍa, p: Kumbhaṇḍa, 鳩槃荼), Bách Lệ Đa (s: Preta, 薜荔多), v.v., giữ gìn phương Nam, có thể hang phục tà ác, làm tăng tưởng thiện căn, là vị thiện thần hộ trì Phật pháp. Đại Hội Kinh (大會經) của Trường A Hàm Kinh (長阿含經, Taishō Tripitaka Vol. 1, No. 1) quyển 12 cho biết rằng: “Nam phương Tỳ Lâu Lặc Thiên Vương, lãnh chư Long Vương, hữu đại uy đức, hữu cửu thập nhất tử, diệc tự Nhân Đà La, hữu đại thần lực (南方毗樓勒天王、領諸龍王、有大威德、有九十一子、亦字因陀羅、有大神力, Tỳ Lâu Lặc Thiên Vương ở phương Nam, thống lãnh các Long Vương, có uy đức lớn, có chín mươi mốt người con, cũng tên là Nhân Đà La, có thần lực lớn).” Về hình tượng của Tăng Trưởng Thiên, các thuyết không giống nhau. Theo Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 11 giải thích rằng thân của Tỳ Rô Đà Ca dài một khuỷu tay, mang các loại y khác nhau, trang sức vô cùng tinh xảo, kỳ diệu, tương xứng với thân; tay trái cầm cây đao buông xuống, tay phải cầm cây giáo dài, đầu giáo chạm đất. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bổn Nguyện Công Đức Kinh Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp (藥師琉璃光王七佛本願功德經念誦儀軌供養法, Taishō Tripitaka Vol. 19, No. 926) cho biết thêm rằng: “Nam phương Tăng Trưởng Đại Thiên Vương, kỳ thân thanh sắc chấp bảo kiếm, thủ hộ bát Phật Nam phương môn (南方增長大天王、其身青色執寶劍、守護八佛南方門, Tăng Trưởng Đại Thiên Vương ở phương Nam, thân màu xanh cầm kiếm báu, giữ gìn tám Phật cửa phía Nam).” Trong đồ hình Mạn Trà La của Thai Tạng Giới Mật Giáo, vị này ngự ở phía Đông thuộc Nam môn của Kim Cang Bộ Viện (金剛部院). Từ xưa, tín ngưỡng Tứ Thiên Vương đã rất cực thịnh, Trung Quốc cũng như Nhật Bản vẫn còn khá nhiều di phẩm và hình tượng của Tứ Thiên Vương cũng bất đồng. Như tại Thiên Tường Am (千祥庵) ở Lạc Dương (洛陽), Tỉnh Hà Nam (河南省), vẫn còn 5 pho tượng Phật sau tường, bên trái là tượng Nhân Vương (仁王), và bên phải là Tăng Trưởng Thiên. Tại Vạn Niên Tự (萬年寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), Tỉnh Triết Giang (浙江省), an trí tượng vị trời này ở góc Đông Bắc, tay cầm đàn Tỳ Bà. Tại Thiên Vương Điện (天王殿) của Thiên Đồng Tự (天童寺) trên Thái Bạch Sơn (太白山), tượng vị trời này tay cầm kiếm. Còn tượng ở Thiên Vương Điện của Phổ Tế Tự (普濟寺) thuộc Phổ Đà Sơn (普陀山) thì tay cầm con rắn. Tượng ở Thiên Vương Điện của Pháp Vũ Tự (法雨寺) thuộc Phổ Đà Sơn thì tay cầm dù. Trong khi đó, tượng ở Thiên Vương Điện của Bảo Thông Tự (寶通寺) thuộc vùng Võ Xương (武昌), Tỉnh Hồ Nam (湖南省), thì tay cầm dù và tháp. Tượng ở Thiên Vương Điện của Quy Nguyên Tự (歸元寺), Hán Khẩu (漢口), thì tay cầm đàn Tỳ Bà. Tôn tượng hiện tồn ở Cư Dung Quan (居庸關) vùng Xương Bình (昌平), Tỉnh Hà Bắc (河北省), là tác phẩm thuộc giữa thời nhà Nguyên (元, 1271-1368), hay tay cầm kiếm, chân phải gập xuống được con quỷ thiện đỡ lên, chân trái duỗi ra đạp lên con quỷ quái; hình tượng rất hùng tráng. Bên cạnh đó, tại Nhật Bản, Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở vùng Nại Lương (奈良, Nara), Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji) ở Đại Hòa (大和, Yamato), v.v., vẫn còn một số kiệt tác điêu khắc về Tăng Trưởng Thiên.
(西院思明, Saiin Shimyō, ?-?): nhân vật sống dưới thời nhà Tống, vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc. Ban đầu ông đến tham vấn Đại Giác (大覺) ở Ngụy Phủ (魏府, Tỉnh Hà Bắc), sau đến tham yết Bảo thọ Chiểu (寳壽沼) ở Trấn Châu (鎮州, Tỉnh Hà Bắc) và kế thừa dòng pháp của vị này. Ông đến trú tại Tây Viện vùng Nhữ Châu (汝州, Phủ Nam Dương, Tỉnh Hà Nam).
(石雨明方, Sekiu Myōhō, 1593-1648): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Thạch Vũ (石雨), sinh ngày 29 tháng giêng năm thứ 21 (1593) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh, xuất thân Võ Đường (武塘), Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), họ là Trần (陳). Ông đến tham học và xuất gia với Tây Trúc Tông (西築宗). Vào năm thứ 43 (1615) niên hiệu Vạn Lịch, ông đến tham yết Trạm Nhiên Viên Trừng (湛然圓澄) ở Thạch Phật Tự (石佛寺), Gia Hưng (嘉興). Tu hành khắc khổ trong vòng 7 năm, cuối cùng ông kế thừa dòng pháp của vị này. Đến năm thứ 5 (1632) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông làm trú trì Thiên Hoa Tự (天華寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府, Tỉnh Triết Giang) và sau đó từng sống qua các chùa khác như Vân Môn Thánh Hiển Tự (雲門聖顯寺), Bảo thọ Sơn Quang Hiếu Tự (寶壽山光孝寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), Di Sơn Tây Thiền Tự (怡山西禪寺), Tuyết Phong Tự (雪峰寺) ở Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), Linh Sơn Tự (靈山寺) ở Đinh Châu (汀州, Tỉnh Phúc Kiến), Phổ Minh Tự (普明寺) ở Phủ Kiến Ninh (建寧府, Tỉnh Phúc Kiến), Linh Phong Tự (靈峰寺) ở Khảo Đình (考亭), Long Môn Sơn Ngộ Không Tự (龍門山悟空寺) ở Hàng Châu, Đông Tháp Quảng Phước Tự (東塔廣福寺) ở Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), Cao Đình Sơn Phật Nhật Tự (皐亭山佛日寺) ở Hàng Châu, Tượng Điền Tự (象田寺) và Lan Ngạc Sơn Tự (蘭萼山寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府). Vào ngày mồng 8 tháng giêng năm thứ 5 (1648) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông thị tịch, hưởng thọ 56 tuổi đời và 35 hạ lạp. Môn nhân là Viễn Môn Tịnh Trú (遠門淨住) biên tập bộ Thạch Vũ Thiền Sư Pháp Đàn (石雨禪師法檀) 20 quyển và soạn bản Hành Trạng (行狀).
(s: abhijñā, p: abhiññā, 神通): âm dịch là Tác Tuần (作旬); ý dịch là thần thông lực (神通力), thần lực (神力), thông lực (通力), thông (通), v.v.; nghĩa là nương vào việc tu tập Thiền định mà đạt được tác dụng tự tại vô ngại, siêu việt con người, không thể nghỉ bàn. Có 5 loại thần thông (Ngũ Thần Thông [五神通], Ngũ Thông [五通]) là Thần Túc Thông (神足通), Thiên Nhãn Thông (天眼通), Thiên Nhĩ Thông (天耳通), Tha Tâm Thông (他心通), Túc Mạng Thông (宿命通). Nếu cọng thêm Lậu Tận Thông (漏盡通) thì trở thành Lục Thần Thông (s: ṣaḍ-abhijñāḥ, 六神通, hay Lục Thông [六通]). Ngoài ra, cũng có khi chỉ riêng Thần Túc Thông là thần thông. Theo A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận (阿毘達磨俱舍論, Taishō Vol. 29, No. 1558) quyển 27, Lục Thông thì lấy tuệ (慧) làm bản chất (tự tánh); trong đó Ngũ Thần Thông nhờ tu Tứ Thiền (s: catvāri dhyānāni, p: cattāri jhānāni, 四禪) mà chứng được; không phải chỉ có bậc Thánh mới chứng đắc, mà ngay cả phàm phu cũng có thể chứng được. Tuy nhiên, đối với trường hợp Lậu Tận Thông thì chỉ có bậc Thánh mới có được. Theo Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 28, Bồ Tát có Ngũ Thông, Phật thì có Lục Thông. Thành Thật Luận (成實論, Taishō Vol. 32, No. 1646) quyển 16 còn cho biết rằng ngoài Phật Giáo ra, ngoại đạo cũng có thể đạt được Ngũ Thông. Vị tiên chứng đắc được Ngũ Thông được gọi là Ngũ Thông Tiên Nhân (五通仙人). Đại Thừa Nghĩ Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) quyển 20 có nêu lên 4 phương pháp đạt được thần thông. (1) Nhờ quả báo sanh lên cõi Thiền thứ tư mà đạt được Báo Thông (報通, thần thông có được nhờ quả báo); (2) Tiên nhân nhờ năng lực của thuốc, có được Nghiệp Thông (業通, do nghiệp mà đạt được năng lực thần thông) tự do bay trên không. (3) Bà La Môn nhờ trì chú mà đạt được Chú Thông (咒通); (4) Nhờ tu Thiền định mà chứng được thần thông gọi là Tu Thông (修通). Trong đó, Nghiệp Thông và Chú Thông thuộc về thần thông của ngoại đạo. Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48) quyển 15 lại chia thần thông làm 5 loại khác: (1) Đạo Thông (道通), là thần thông đạt được sau khi ngộ lý Trung Đạo (s: madhyamā-pratipad, p: majjhima-paṭipadā, 中道), lấy vô tâm để ứng với muôn vật mà biến hiện vạn hữu. (2) Thần Thông (神通), là năng lực thần thông nương vào sự tĩnh tâm của Thiền định, quán sát tư duy mà biết được mạng sống đời trước, v.v. (3) Y Thông (依通), là năng lực thần thông nương vào dược liệu, hộ phù hay chú, v.v., mà có được. (4) Báo Thông (報通), là năng lực thần thông nương vào quả báo mà có được. (5) Yêu Thông (妖通), là năng lực thần thông của hàng yêu quái. Trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 12, chương Khiết Bàn Đà Quốc (朅盤陀國), của Huyền Trang (玄奘, 602-664) nhà Đường, có đoạn: “Thời Khiết Bàn Đà quốc, hữu đại La Hán, diêu quán kiến chi, mẫn kỳ nguy ách, dục vận thần thông, chửng tư luân nịch (時朅盤陀國、有大羅漢、遙觀見之、愍其危厄、欲運神通、拯斯淪溺, lúc bấy giờ ở nước Khiết Bàn Đà, có một vị đại La Hán, xa quán thấy như vậy, thương xót tai ách của họ, muốn vận thần thông, cứu vớt sự chìm đắm ấy).” Vua Lý Nhân Tông (李仁宗, tại vị 1072-1127) có bài thơ rằng: “Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo hựu huyền, thần thông kiêm biến hóa, nhất Phật nhất thần tiên (覺海心如海、通玄道又玄、神通兼變化、一佛一神仙, Giác Hải tâm như hải, Thông Huyền đạo lại huyền, thần thông và biến hóa, bên Phật bên thần tiên).” Hay trong bài Lục Quán Đường Tán (六觀堂贊) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống có câu: “Ngã quán chúng sanh, thần thông tự tại (我觀眾生、神通自在, ta quán chúng sanh, thần thông tự tại).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập