Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Sự thành công thật đơn giản. Hãy thực hiện những điều đúng đắn theo phương cách đúng đắn và vào đúng thời điểm thích hợp. (Success is simple. Do what's right, the right way, at the right time.)Arnold H. Glasow
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Người duy nhất mà bạn nên cố gắng vượt qua chính là bản thân bạn của ngày hôm qua. (The only person you should try to be better than is the person you were yesterday.)Khuyết danh
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bảo thọ »»

(葉縣歸省, Sekken Kisei, ?-?): nhân vật sống khoảng thời nhà Tống, vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, người vùng Kí Châu (冀州, Tỉnh Hà Nam), họ là Mại (賈). Ông xuất gia và thọ Cụ Túc giới tại Bảo thọ Viện (保壽院) vùng Dịch Châu (易州). Sau ông du hành lên phương Nam, đến tham yết Thủ Sơn Tỉnh Niệm (首山省念) ở Nhữ Châu (汝州) và được đại ngộ. Mấy năm sau, ông đến trú tại Diệp Huyện Quảng Giáo Viện (葉縣廣敎院). Ông có để lại Diệp Huyện Quảng Giáo Tỉnh Ngữ Lục (葉縣廣敎省語錄) 1 quyển.
(蓮花 hay 蓮華, renge): hoa sen. Ở Trung Quốc và Nhật Bản, người ta thường cho loại hoa sen mà có rễ (củ sen) là hoa sen, nhưng ở Ấn Độ còn có thêm một loại sen nước (thủy liên) khác nữa ngoài hai thứ trên, và khi nói đến hoa sen người ta thường ám chỉ loại sen nước này nhiều hơn. Tại Ấn Độ có nhiều loại hoa sen, nhưng trong kinh điển Phật Giáo có đề cập đến 5 loại. Đó là hoa sen trắng (s, p: puṇḍarīka, âm dịch là Phân Đà Lợi Ca [分陀利迦], 白蓮), hoa sen xanh (s: utpala, p: uppala, âm dịch là Ưu Bát La [優鉢羅], 青蓮), hoa sen hồng (s: padma, p: paduma, âm dịch là Bát Đầu Ma [鉢頭摩], 紅蓮), hoa sen vàng (s, p: kumuda, âm dịch là Câu Vật Đầu [拘物頭], 黃蓮), và loại hoa sen xanh khác (s, p: nīlotpala, 青蓮). Nhưng trên thực tế thì trừ loại hoa sen trắng (puṇḍarīka) ra, loại nào cũng có màu trắng và hồng cả. Từ ngàn xưa ở Ấn Độ người ta rất yêu chuộng loại hoa sen này. Trong đạo Bà La Môn có thần thoại cho rằng từ trong lỗ rún của thần Vishnu sinh ra hoa sen, trong hoa sen có Phạm Thiên là người sáng tạo ra vạn vật. Hoa sen vốn mọc trong bùn, nhưng trồi ra khỏi bùn để sống, không bị nhiễm mùi hôi tanh của bùn nhơ, mà còn có mùi thơm trong sạch, cho nên nó được ví như là Phật tâm vốn có cũng như chư Phật và Bồ Tát thanh tịnh. Một trong những kinh điển tiêu biểu của Đại Thừa nói về hoa sen là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka, 妙法蓮華經), ví diệu pháp của Phật như là hoa sen trắng lớn. Thế giới của Kinh Pháp Hoa là Liên Hoa Tạng Thế Giới (蓮華藏世界) hay nói cho đúng là Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải (s: Kusumatalagarbha-vyūhālaṃkāra-lokadhātu-samudra, 蓮華藏莊嚴世界海). Cổ Côn Pháp Sư (古崑法師) nhà Thanh có câu thơ rằng: “Nhất thanh Phật hiệu vi vi tụng, thất bảo Liên Hoa đại đại khai (一聲佛號微微誦、七寶蓮花大大開, một tiếng niệm Phật nhỏ nhỏ tụng, hoa sen bảy báu nở lớn dần).” Hay như tại Cửu Phong Thiền Tự (九峰禪寺) ở Vĩnh Gia (永嘉), Tỉnh Triết Giang (浙江省) có câu đối như sau: “Hoàng kim địa thượng Bảo thọ trùng trùng tận thị tu hành giả chủng, bạch ngọc trì trung Liên Hoa đóa đóa vô phi niệm Phật nhân tài (黃金地上寶樹重重盡是修行者種、白玉池中蓮花朵朵無非念佛人栽, trên đất vàng ròng cây báu hàng hàng thảy do người tu hành trồng, trong hồ ngọc trắng hoa sen đóa đóa đều là người niệm Phật gieo).”
(s: dharma-rāja, 法王): vua pháp, tôn xưng thường dùng để chỉ cho chư Phật. Vương có nghĩa tối thắng, tự tại; đức Phật là chủ tể của Pháp, có thể giáo hóa chúng sanh một cách tự tại, nên được gọi là Pháp Vương. Như trong Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經, Taishō No. 12) quyển Hạ có câu: “Phật vi Pháp Vương, tôn siêu chúng Thánh, phổ vi nhất thiết thiên nhân chi sư (佛爲法王、尊超眾聖、普爲一切天人之師, Phật là Pháp Vương, được tôn kính hơn các bậc Thánh, là vị thầy của khắp hết thảy trời người).” Hay như trong Thích Ca Phương Chí (釋迦方誌, Taishō No. 51) có giải thích rằng: “Phàm nhân cực vị, danh viết Luân Vương; Thánh nhân cực vị, danh viết Pháp Vương (凡人極位、名曰輪王、聖人極位、名曰法王, ngôi vị cao nhất của người phàm gọi là Luân Vương, ngôi vị cao nhất của bậc Thánh là Pháp Vương).” Trong bài xưng tán đức Phật có câu: “Pháp Vương vô thượng tôn, Tam Giới vô luân thất, thiên nhân chi đạo sư, Tứ Sanh chi từ phụ (法王無上尊、三界無倫匹、天人之導師、四生之慈父, đấng Pháp Vương vô thượng, Ba Cõi chẳng ai bằng, thầy dạy khắp trời người, cha lành chung Bốn Loại).” Hay như trong Tây Du Ký (西遊記), hồi thứ 64 lại có đoạn: “Trượng tích Tây lai bái Pháp Vương, nguyện cầu diệu điển viễn truyền dương, kim chi tam tú thi đàn thoại, Bảo thọ thiên hoa liên nhụy hương, bách xích cán đầu tu tấn bộ, thập phương thế giới lập hành tàng, tu thành ngọc tượng trang nghiêm thể, Cực Lạc môn tiền thị đạo trường (杖錫西來拜法王、願求妙典遠傳揚、金芝三秀诗坛瑞,宝树千花莲蕊香。金芝三秀詩壇瑞、寶樹千花蓮蕊香、百尺竿头须进步,十方世界立行藏。百尺竿頭須進步、十方世界立行藏、修成玉象庄严体,极乐门前是道场。修成玉象莊嚴體、極樂門前是道塲, quảy trượng qua Tây lễ Pháp Vương, nguyện mong kinh điển khắp truyền dương, cành vàng tam tú thơ đàn lạ, cây báu ngàn hoa sen nhụy hương, trăm bộ đầu sào nên bước tiếp, mười phương thế giới vững trụ thường, tu thành voi ngọc trang nghiêm dáng, Cực Lạc cửa này chính đạo trường).”
(芙蓉道楷, Fuyō Dōkai, 1043-1118): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, xuất thân Phí Huyện (費縣), Nghi Châu (沂州, Tỉnh Sơn Đông), họ là Thôi (崔). Lúc nhỏ ông học phái thần tiên đạt được các bí thuật rồi đến ẩn cư tại Y Dương Sơn (伊陽山) thuộc Tỉnh Hà Nam (河南省). Lâu sau ông lên kinh sư dạo chơi, rồi xuất gia ở Thuật Thánh Viện (述聖院, tức Thuật Đài Tự [術台寺]), tôn Đức Xiêm (德暹) làm thầy. Vào năm 23 tuổi ông thọ Cụ Túc giới. Sau đó, ông đi du phương tham học, gặp được Nghĩa Thanh (義清) ở Đầu Tử Sơn (投子山) vùng Thư Châu (舒州, Tỉnh An Huy), nhân nghe lời dạy của vị này mà đại ngộ và được kế thừa dòng pháp của vị này. Sau ông từ giã thầy đến Thiều Sơn (韶山), hằng ngày thường sống với cọp beo. Vào năm thứ 5 (1082) niên hiệu Nguyên Phong (元豐), ông khai mở đạo tràng bố giáo tại Tiên Động Sơn (仙洞山), Nghi Châu. Ông đã từng sống qua các nơi như Càn Nguyên Chiêu Đề (乾元招提) vùng Tây Kinh (西京, Tỉnh Hà Nam) cũng như Đại Dương Sơn (大陽山) ở Dĩnh Châu (郢州, Tỉnh Hồ Bắc). Vào năm thứ 2 (1103) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông đến làm trú trì đời thứ hai của Sùng Ninh Bảo thọ Thiền Viện (保壽禪院) ở Đại Hồng Sơn (大洪山), Tùy Châu (隨州, Tỉnh Hồ Bắc). Năm sau, thể theo chiếu chỉ nhà vua, ông đến trú trì Thập Phương Tịnh Nhân Thiền Viện (十方淨人禪院) ở Đông Kinh (東京, Tỉnh Hà Nam), rồi vào năm đầu (1107) niên hiệu Đại Quán (大觀), ông chuyển đến Thiên Ninh Tự (天寧寺). Vào mùa xuân năm sau, ông được ban cho Tử Y và hiệu là Định Chiếu Thiền Sư (定照禪師), nhưng ông cố từ không nhận. Cũng do vì việc này mà vào mùa đông năm này, ông bị lưu đày đến Chuy Châu (淄州, Tỉnh Sơn Đông). Đến năm đầu (1111) niên hiệu Chính Hòa (政和), ông được tha tội, bèn lên Thiên Thai (天台), Nhạn Đãng (雁蕩) ngao du và khi trở về cố hương thì cha đã già yếu, nên ông dừng chân tại đây. Vị quan Xu Mật Lưu Công (劉公) dựng am thất ở Phù Dung Hồ Điền (芙蓉湖田, Tỉnh Sơn Đông), thỉnh ông đến ở và ông đã thành lập nơi đây khu tùng lâm. Vào ngày 14 tháng 5 năm thứ 8 niên hiệu Chính Hòa, ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi đời và 42 hạ lạp. Đệ tử ông có 93 người, trong đó ra đời thành công là 29 người, đặc biệt có Đơn Hà Tử Thuần (丹霞子淳) là nhân vật kiệt xuất nhất. Hiện vẫn còn lưu hành bộ Phù Dung Giai Thiền Sư Ngữ Yếu (芙蓉楷禪師語要) 2 quyển của ông.
(西院思明, Saiin Shimyō, ?-?): nhân vật sống dưới thời nhà Tống, vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc. Ban đầu ông đến tham vấn Đại Giác (大覺) ở Ngụy Phủ (魏府, Tỉnh Hà Bắc), sau đến tham yết Bảo thọ Chiểu (寳壽沼) ở Trấn Châu (鎮州, Tỉnh Hà Bắc) và kế thừa dòng pháp của vị này. Ông đến trú tại Tây Viện vùng Nhữ Châu (汝州, Phủ Nam Dương, Tỉnh Hà Nam).
(石雨明方, Sekiu Myōhō, 1593-1648): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, tự là Thạch Vũ (石雨), sinh ngày 29 tháng giêng năm thứ 21 (1593) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆) nhà Minh, xuất thân Võ Đường (武塘), Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), họ là Trần (陳). Ông đến tham học và xuất gia với Tây Trúc Tông (西築宗). Vào năm thứ 43 (1615) niên hiệu Vạn Lịch, ông đến tham yết Trạm Nhiên Viên Trừng (湛然圓澄) ở Thạch Phật Tự (石佛寺), Gia Hưng (嘉興). Tu hành khắc khổ trong vòng 7 năm, cuối cùng ông kế thừa dòng pháp của vị này. Đến năm thứ 5 (1632) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông làm trú trì Thiên Hoa Tự (天華寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府, Tỉnh Triết Giang) và sau đó từng sống qua các chùa khác như Vân Môn Thánh Hiển Tự (雲門聖顯寺), Bảo thọ Sơn Quang Hiếu Tự (寶壽山光孝寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), Di Sơn Tây Thiền Tự (怡山西禪寺), Tuyết Phong Tự (雪峰寺) ở Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), Linh Sơn Tự (靈山寺) ở Đinh Châu (汀州, Tỉnh Phúc Kiến), Phổ Minh Tự (普明寺) ở Phủ Kiến Ninh (建寧府, Tỉnh Phúc Kiến), Linh Phong Tự (靈峰寺) ở Khảo Đình (考亭), Long Môn Sơn Ngộ Không Tự (龍門山悟空寺) ở Hàng Châu, Đông Tháp Quảng Phước Tự (東塔廣福寺) ở Phủ Gia Hưng (嘉興府, Tỉnh Triết Giang), Cao Đình Sơn Phật Nhật Tự (皐亭山佛日寺) ở Hàng Châu, Tượng Điền Tự (象田寺) và Lan Ngạc Sơn Tự (蘭萼山寺) ở Phủ Thiệu Hưng (紹興府). Vào ngày mồng 8 tháng giêng năm thứ 5 (1648) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông thị tịch, hưởng thọ 56 tuổi đời và 35 hạ lạp. Môn nhân là Viễn Môn Tịnh Trú (遠門淨住) biên tập bộ Thạch Vũ Thiền Sư Pháp Đàn (石雨禪師法檀) 20 quyển và soạn bản Hành Trạng (行狀).
(天龍寺, Tenryu-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Thiên Long Tự (天龍寺派) thuộc Lâm Tế Tông, ngôi Thiền Tự được xây dựng vào đời đại Nam Bắc Triều, tọa lạc tại số 68 Sagatennōjisusukinobabachō (嵯峨天龍寺芒ノ馬場町), Ukyō-ku (右京区), Kyoto-shi (京都市), Kyoto-fu (京都府); hiệu núi là Linh Quy Sơn (靈龜山), còn gọi là Thiên Long Tư Thánh Thiền Tự (天龍資聖禪寺); tên chính thức là Linh Quy Sơn Thiên Long Tư Thánh Thiền Tự (靈龜山天龍資聖禪寺). Lúc ban đầu mới thành lập thì chùa được gọi là Lịch Ứng Tự (曆應寺), nhưng không bao lâu thì tên này được sửa đổi. Đây là ngôi chùa đứng hàng đầu nổi tiếng trong năm ngôi bảo sát ở vùng kinh đô Kyoto. Nơi vùng đất chùa ngày xưa có Đàn Lâm Tự (檀林寺), rồi có Tiên Động Ngự Sở của Hậu Tha Nga Thượng Hoàng (後嵯峨上皇), và Ly Cung của Quy Sơn Thiên Hoàng (龜山天皇, Kameyama Tennō). Vào năm thứ 4 (1339) niên hiệu Diên Nguyên (延元), khi Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) băng hà ở vùng Cát Dã (吉野, Yoshino), theo lời khuyên của Mộng Song Sơ Thạch (夢窻疎石), Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji) mới nhận chiếu chỉ và khai sáng chùa này. Chính bản thân Mộng Song và Túc Lợi đã tự mình bưng đất cát xây chùa, rồi cho đến năm thứ 6 (1345) niên hiệu Hưng Quốc (興國) thì chùa được hoàn thành, và Mộng Song trở thành vị Tổ khai sơn chùa này. Kế đến bảy ngôi đường vũ già lam cũng đều được hoàn bị. Về sau, chùa cũng đã nhiều lần bị nạn binh hỏa, các ngôi đường vũ dần dần bị cháy tan tành. Đến trong khoảng niên hiệu Ứng Vĩnh (應永, 1394-1427), khuôn viên chùa được nới rộng ra thêm, có đến khoảng 110 ngôi tháp. Kiến trúc hiện còn lại là Tổng Môn, Sắc Tứ Môn, Chánh Điện, Pháp Đường, Thư Viện, Đại Phương Trượng, Tuyển Phật Trường, Tàng Kinh, Sơn Môn, v.v. Phần lớn những kiến trúc này đều được xây dựng lại dưới thời Minh Trị trở về sau. Chánh Điện chùa được gọi là Đa Vũ Điện (多宇殿), nơi đây an trí tôn bia của Hậu Đề Hồ Thiên Hoàng. Còn ở trên trần nhà của Pháp Đường có vẽ hình rồng ẩn trong mây, là thư bút nổi tiếng của Linh Mộc Tùng Niên (鈴木松年). Trong khuôn viên chùa còn có rất nhiều tòa viện và chùa nhỏ như Kim Cang Viện (金剛院), Bảo thọ Viện (寶壽院), Từ Tế Viện (慈濟院), Diệu Trí Viện (妙智院), Tùng Nham Tự (松岩院), Lộc Vương Viện (鹿王院), Tây Phương Tự (西芳寺), Địa Tạng Viện (地藏院), v.v. Đình viên Tào Nguyên Trì (曹源池) của chùa được công nhận là thắng cảnh nổi tiếng, tương truyền do tay Mộng Song Sơ Thạch làm ra.
(塵勞): tên gọi khác của phiền não, tức phiền não của Ngũ Dục (五欲, gồm sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục) và Lục Trần (六塵, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). Như trong Ảnh Hưởng Tập (影響集, CBETA No. 1209) có đoạn: “Nhất cú Di Đà tuệ nguyệt lâm, Như Lai hộ niệm thiện căn thâm, kính đăng bất thối xu An Dưỡng, cấu tập trần lao tổng bất xâm, nhất cú Di Đà tín khả trân, kim dung Phật ảnh hiện ngô tâm, thử sanh mỗi yếm Ta Bà khổ, diêu tưởng hoa trì Bảo thọ lâm (一句彌陀慧月臨、如來護念善根深、徑登不退趨安養、垢習塵勞總不侵、一句彌陀信可珍、金容佛影現吾心、此生每厭娑婆苦、遙想花池寶樹林, một câu Di Đà trời tuệ quang, Như Lai hộ niệm căn lành sâu, đường đi chẳng thối về An Dưỡng, dơ bẩn bụi trần thảy không xâm, một câu Di Đà tin tận cùng, thân vàng bóng Phật hiện trong tâm, đời này thường chán Ta Bà khổ, xa nhớ hồ sen cây báu rừng).” Hay như trong bài Thỉnh Phật Văn (請佛文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277) quyển 3 cũng có câu: “Bát vạn trần lao câu nhất tảo, bách thiên công đức hiện Tam Thừa, như Cam Lồ nhi ốc tâm, tợ Đề Hồ nhi quán đảnh (八萬塵勞俱一掃、百千功德現三乘、如甘露而沃心、似醍醐而灌頂, tám vạn trần lao đều quét sạch, trăm ngàn công đức hiện Ba Thừa, như Cam Lồ rót vào tâm, tợ Đề Hồ rưới đỉnh đầu).”
(永嚴, Yōgon, 1075-1151): vị tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào cuối thời Bình An, vị Tổ của Dòng Bảo thọ Viện (保壽院流), húy là Vĩnh Nghiêm (永嚴), thông xưng là Hạ Dã Pháp Sư (下野法師), tự là Bình Đẳng Phòng (平等房), con của vị Trưởng Quan Kami vùng Hạ Dã (下野, Shimotsuke) là Bình Sư Quý (平師季). Ông theo xuất gia với Khoan Trợ (寬助) của Thành Tựu Viện (成就院) ở Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), rồi đến năm 1108 thì nhậm chức Truyền Pháp A Xà Lê (傳法阿闍梨). Năm 1113, ông đến trú tại Đông Tự (東寺, Tō-ji), chuyên hành lễ Quán Đảnh; và vào năm 1138 thì làm Quyền Thiếu Tăng Đô (權少僧都). Sau đó, ông sáng lập Bình Đẳng Viện (平等院) trên Cao Dã Sơn. Vào năm 1145, ông làm Tự Trưởng của Đông Tự, đến năm 1150 thì làm chức Pháp Ấn (法印), rồi khai sáng Bảo thọ Viện (保壽院) ở Nhân Hòa Tự và trở thành Tổ của Dòng Bảo thọ Viện. Trong khoảng niên hiệu Bảo Diên (, 1135-1141), vâng mệnh của Điểu Vũ Thượng Hoàng (鳥羽上皇), ông soạn bộ Đồ Tượng Sao (圖像抄, 10 quyển). Đệ tử phú pháp của ông có Giác Thành (覺成), Thiền Thọ (禪壽), Trường Giác (長覺), Giác Hiểu (覺曉), v.v. Trước tác của ông có Yếu Tôn Pháp (要尊法) 1 quyển, Bình Đẳng Sao (平等抄) 2 quyển, v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập