Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như cái muỗng không thể nếm được vị của thức ăn mà nó tiếp xúc, người ngu cũng không thể hiểu được trí tuệ của người khôn ngoan, dù có được thân cận với bậc thánh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bảo tòa »»
(s: kalaviṅka, p: karavika, 迦陵頻伽): còn gọi là Ca La Tần Già (歌羅頻伽), Ca Lan Già (加蘭伽), Ca Lan Tần Già (迦蘭頻伽), Yết La Tần Già (羯羅頻迦), Ca Lăng Tần Già (迦楞頻伽), Ca Lăng Tỳ Già (迦陵毘伽), Ca Lăng Già (迦陵伽), Yết Lăng Già (羯陵伽), Yết Tỳ Già La (羯毘伽羅), Yết Lăng Già La (羯陵伽羅), Ca Tỳ Già La (迦毘伽羅), Hạt Thất Già La (鶡鵯伽羅), Ca Vĩ La (迦尾羅), v.v.; ý dịch là hảo thanh điểu (好聲鳥, chim có tiếng hót hay), mỹ dung điểu (美容鳥, chim có hình dáng đẹp), diệu thanh điểu (妙聲鳥, chim có âm thanh tuyệt diệu). Đây là tên của một loài chim, thường thấy chủ yếu ở Ấn Độ, xuất xứ từ trên Tuyết Sơn (s, p: Himālaya, 雪山); nó sắc màu đen mượt giống như chim sẻ, bộ lông rất đẹp, ở phần cổ có màu đỏ. Khi còn trong trứng, chim đã có thể cất tiếng hót, âm thanh trong trẻo, hòa nhã, vi diệu, so với tiếng của Trời, người, Khẩn Na La (s: kiṃnara, 緊那羅) cũng như tất cả những loài chim khác đều thua xa. Như trong A Di Đà Kinh Yếu Giải Tiện Mông Sao (阿彌陀經要解便蒙鈔, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 430) quyển Trung có giải thích rằng: “Sơn cốc khoáng dã, kỳ trung đa hữu Ca Lăng Tần Già, xuất diệu âm thanh, nhược thiên nhược nhân, Khẩn Na La đẳng, vô năng cập giả (山谷曠野、其中多有迦陵頻伽、出妙音聲、若天若人、緊那羅等、無能及者, nơi hang núi đồng rộng, trong đó có nhiều chim Ca Lăng Tần Già, phát ra tiếng hót vi diệu, dẫu Trời dẫu người, Khẩn Na La vân vân, không thể sánh bằng).” Trong kinh điển Phật Giáo, thường lấy âm thanh của loài chim này để ví cho tiếng vi diệu của chư Phật, Bồ Tát; hoặc xem Ca Lăng Tần Già như là loài chim của thế giới Cực Lạc. Trong đồ hình Mạn Trà La Tịnh Độ, Ca Lăng Tần Già được vẽ dưới hình dạng đầu người thân chim. Trong Đại Thừa Tập Bồ Tát Học Luận (大乘集菩薩學論, Taishō Vol. 32, No. 1636) quyển 23 có câu: “Mâu Ni Tam Nghiệp siêu Tam Hữu, thí nhược phù cừ bất trước thủy, Ca Lăng Tần Già tịnh diệu thanh, thị cố ngã kim khể cụ lễ (牟尼三業超三有、譬若芙蕖不著水、迦陵頻伽淨妙聲、是故我今稽具禮, Mâu Ni Ba Nghiệp vượt Ba Cõi, giống như hoa sen chẳng thấm nước, Ca Lăng Tần Già tiếng vi diệu, vì vậy con nay cúi đầu lạy).” Hay trong Phật Thuyết Hộ Quốc Tôn Giả Sở Vấn Đại Thừa Kinh (佛說護國尊者所問大乘經, Taishō Vol. 12, No. 321) quyển 3 có đoạn: “Phước Quang Thái Tử viên uyển chi nội, hữu chủng chủng phi điểu, Anh Vũ, Cù Dục, Uyên Ương, Nga Áp, Khổng Tước Xá Lợi, Câu Chỉ La Điểu, Câu Nỗ La Điểu, Ca Lăng Tần Già, Mạng Mạng Điểu đẳng (福光太子園苑之內、有種種飛鳥、鸚鵡、鴝鵒、鴛鴦、鵝鴨、孔雀舍利、俱枳羅鳥、俱拏羅鳥、迦陵頻伽、命命鳥等, trong vườn của Thái Tử Phước Quang có nhiều loại chim bay, như chim vẹt, sáo, uyên ương, vịt trời, chim sẻ Xá Lợi, chim Câu Chỉ La, chim Câu Nỗ La, chim Ca Lăng Tần Già, chim Mạng Mạng, vân vân).” Trong Tam Thời Hệ Niệm Nghi Quỹ (三時繫念儀範, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1465) lại có đoạn: “Lục thời hành đạo bảo lâm gian, Cửu Phẩm tiêu danh kim chiểu nội, thủy điểu thọ lâm năng thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già cọng đàm Thiền, bảo lan bảo can ảnh linh lung, bảo tọa bảo tràng quang xán lạn (六時行道寶林間、九品標名金沼內、水鳥樹林能說法、迦陵頻伽共談禪、寶欄寶網影玲瓏、寶座寶幢光燦爛, sáu thời hành đạo nơi rừng báu, Chín Phẩm đề danh trong hồ vàng, chim nước rừng cây còn thuyết pháp, Ca Lăng Tần Già thảy bàn Thiền, lan can quý báu ảnh lung linh, tòa báu tràng phan sáng rực rỡ).”
(關煞): là dụng ngữ thuật số, ngày xưa nhà Tinh Số (chiêm tinh gia bói toán về số mạng con người) cho rằng con người gặp tai nạn do vận mạng quyết định, đó là “Quan Sát”. Con người cho rằng các em nhỏ khi chưa đến tuổi thành niên, thường gặp 36 Quan Sát và 72 sao Thiên Cương (天罡), dễ sanh nhiều bệnh tật, tai họa và chết yểu. 36 Quan Sát gồm:
(1) Thiên Nhật Quan (千日關), người sanh ở tuổi Dần, Thân, Tỵ thuộc năm Ngọ, sự tai họa rơi từ trên cao xuống, sanh ra trong vòng 1.000 ngày không nên đến nhà thờ thần linh của bà ngoại, không nên ngồi xe đi phương xa, chủ yếu bị bệnh kinh phong, nôn ọe sữa, không phạm những điều trên thì sẽ bảo đảm bình an;
(2) Lôi Công Quan (雷公關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Ngọ; ngày Ất, Mậu gặp giờ Tuất; ngày Bính, Đinh, Nhâm, Quý gặp giờ Tý; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần, khi nghe tiếng sấm sét, tiếng trống đánh, chớ đến gần giếng nước, hay đồ vật bằng sắt, đề phòng ngồi cao té ngã, em bé vui đùa bò lên cao, như vậy sẽ nguy hiểm, chớ ẵm bé lên chỗ cao đùa giỡn, vậy mới bảo đảm bình an;
(3) Lạc Tỉnh Quan (落井關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ; sanh ngày Ất, Canh gặp giờ Tý; sanh ngày Bính, Tân gặp giờ Thân; sanh ngày Đinh, Nhâm gặp giờ Tuất, chớ đến gần bên giếng, bên sông, nước, đi thuyền bè, đến chơi nơi chỗ nào có huyệt động sâu đều nguy hiểm, có tai họa về nước, chủ yếu chớ nên gần;
(4) Kê Phi Quan (雞飛關), là những người sanh ngày Giáp, Kỷ gặp giờ Tỵ, Dậu, Sửu; sanh ngày Ất, Bính, Đinh, Tuất gặp giờ Tý; ngày Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, tránh nhìn thấy sát sanh, giết hại gà, vịt, cá thì sợ, đề phòng bệnh kinh phong khi gà bay qua quá đầu và mổ lên đầu, cần phải thận trọng thì sẽ tránh được chuyện không hay;
(5) Thủ Mạng Quan (取命關), là những người sanh ngày Giáp, Ất, Bính, Đinh gặp giờ Thân, Tý, Thìn; ngày Mậu, Kỷ, Canh gặp giờ Hợi, Mão, Mùi; ngày Tân, Nhâm, Quý gặp giờ Dần, Ngọ, Tuất, đề phòng chỗ cao nguy hiểm, chớ nhìn người mất hung dữ, không nên đến gần nơi tang lễ, những đền miếu mới xây, đàn tràng Giải Oan Bạt Độ vào dịp Trung Nguyên;
(6) Bạch Hổ Quan (白虎關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Thìn, Dậu; năm Hỏa gặp giờ Tý, Mùi, Thân; năm Thủy, Thổ gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, suốt đời nhiều tai hoạn máu me, đề phòng mất chân, phải nên thận trọng ở những chỗ cao nguy hiểm, đối với mạng người nữ cần phải rất thận trọng khi sinh đẻ, để tránh mất mác cả mẹ lẫn con, coi chừng bị bệnh sởi, đậu mùa;
(7) Thiết Xà Quan (鐵蛇關), là những người sanh năm Kim gặp giờ Mão, Tuất; năm Mộc gặp giờ Dậu, Thìn; năm Hỏa gặp giờ Sửu, Dần, Ngọ, ngựa đi trên đường cần phải thận trọng, chớ đến gần để tránh nguy hiểm, coi chừng phát sinh bệnh sởi, đậu mùa, dễ bị động vật cắn;
(8) Đoạn Trường Quan (斷膓關), là những người sanh ngày Giáp, Ất gặp giờ Ngọ, Mùi; ngày Bính, Đinh gặp giờ Thìn, Tỵ; ngày Mậu gặp giờ Ngọ; ngày Kỷ gặp giờ Mùi; ngày Canh, Tân gặp giờ Dần; ngày Nhâm, Quý gặp giờ Sửu, kỵ nhìn thấy giết heo, dê, chớ vào chỗ đồ tể;
(9) Đoản Mạng Quan (短命關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Dần; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Mùi, đề phòng nói lảm nhảm buổi tối, hay kinh sợ;
(10) Hòa Thượng Quan (和尚關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu; năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi, chớ vào các đàn tràng cúng chay (trai đàn), không nên vào nhà đám ma, chớ vào chùa gặp Hòa Thượng, tăng ni, nếu không lưu tâm sẽ bị tai ương một đời, nên tránh không nên theo mẹ vào đền miếu dâng hương;
(11) Thiên Điếu Quan (天吊關), là những người sanh năm Thân, Tý, Thìn gặp giờ Tỵ, Ngọ; năm Tỵ, Dậu, Sửu gặp giờ Tý, Mão; năm Dần, Ngọ, Tuất gặp giờ Thìn, Ngọ; năm Hợi, Mão, Mùi gặp giờ Ngọ, Thân, qua núi qua sông bất lợi, đi đêm trên đường bất an, đồng thời có nhiều tai nạn cấp bách, họa hoạn;
(12) Dạ Đề Quan (夜啼關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Ngọ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Dậu; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Mão, ban đêm không nên ra ngoài du ngoạn, nhìn mặt trời lặn hướng Tây cũng không tốt, buổi tối không nên nhìn ánh sáng đèn để tránh con nít khóc nhè đêm;
(13) Mai Nhi Quan (埋兒關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Sửu; năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp giờ Mão; năm Dần, Thân, Tỵ Hợi gặp giờ Thân, kỵ nhìn thấy nhập liệm, tống táng, khi nhỏ đã khó nuôi, nên lạy thần minh để xin làm con nuôi mới bảo toàn tánh mạng;
(14) Ngũ Quỷ Quan (五鬼關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Thìn; năm Sửu gặp giờ Mão; năm Dần gặp giờ Dần; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Tý; năm Tỵ gặp giờ Hợi; năm Ngọ gặp giờ Tuất; năm Mùi gặp giờ Dậu; năm Thân gặp giờ Thân; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Ngọ, năm Hợi gặp giờ Tỵ, không nên đến gần đàn tràng Giải Oan Bạt Độ, nếu đến gần sẽ sanh tai tật, kỵ nhìn thấy gỗ làm quan tài, mộ địa;
(15) Thiên Cẩu Quan (天狗關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Tuất; năm Sửu gặp giờ Hợi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Sửu; năm Thìn gặp giờ Dần; năm Tỵ gặp giờ Mão; năm Ngọ gặp giờ Thìn; năm Mùi gặp giờ Tỵ; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Mùi; năm Tuất gặp giờ Thân; năm Hợi gặp giờ Dậu, Thiên Cẩu ăn mặt trời, không nên nhìn, sợ nghe tiếng chó sủa, em bé thường có khuôn mặt phá tướng, bị thương tích, sanh ra trong vòng 40 ngày, xuất hành đi xa không lợi, cũng không nên đi đêm, để bảo đảm một năm bốn mùa được bình an;
(16) Quỷ Môn Quan (鬼門關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Dậu; năm Sửu gặp giờ Ngọ; năm Dần gặp giờ Mùi; năm Mão gặp giờ Thân; năm Thìn gặp giờ Hợi; năm Tỵ gặp giờ Tuất; năm Ngọ gặp giờ Sửu; năm Mùi gặp giờ Dần; năm Thân gặp giờ Mão; năm Dậu gặp giờ Tý; năm Tuất gặp giờ Tỵ; năm Hợi gặp giờ Thìn, không thể đi xa, suốt đời nơi nào có miếu âm cung thì chớ nên vào, đồng thời cũng không nên vào nhà hung dữ;
(17) Chàng Mạng Quan (撞命關), là những người sanh năm Tý gặp giờ Sửu; năm Sửu gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tý; năm Mão gặp giờ Tỵ; năm Thìn gặp giờ Thìn; năm Tỵ gặp giờ Ngọ; năm Ngọ gặp giờ Ngọ; năm Mùi gặp giờ Sửu; năm Thân gặp giờ Ngọ; năm Dậu gặp giờ Dậu; năm Tuất gặp giờ Mùi; năm Hợi gặp giờ Hợi, khó nuôi con, thân thể suy nhược, nhiều bệnh, có hiện tượng chết yểu;
(18) Thang Hỏa Quan (湯火關), là những người sanh năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp giờ Ngọ; năm Sửu, Thân, Hợi gặp giờ Mùi; năm Dần gặp giờ Tỵ; năm Mão gặp giờ Tý; năm Ngọ, Dậu gặp giờ Dần, chủ yếu chú ý về lửa, nước nóng, dầu, không nên đến gần nhà bếp, rất dễ bị thương tích;
(19) Trực Nạn Quan (直難關), là những người sanh tháng Mão, Dần (1, 2) gặp giờ Ngọ; tháng Thìn, Tỵ (3, 4) gặp giờ Mùi; tháng Ngọ, Mùi (5, 6) gặp giờ Mão, Tuất; tháng Thân, Dậu (7, 8) gặp giờ Tỵ, Thân; tháng Tuất, Hợi (9, 10) gặp giờ Dần, Mão; tháng Tý, Sửu (11, 12) gặp giờ Thìn, Dậu, thận trọng đề phòng đao khí, vật bén nhọn làm tổn thương;
(20) Thâm Thủy Quan (深水關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Dần, Thân, chớ đến gần bên sông, hồ nước, đề phòng tai họa về nước, phạm cha mẹ đời trước, không lạy vào dịp Thanh Minh (清明, khoảng đầu tháng 3 Âm Lịch), Đoan Ngọ (端午, mồng 5 tháng 5 Âm Lịch), Thất Tịch (七夕, mồng 7 tháng 7 Âm Lịch), Trung Thu (中秋, rằm tháng 8 Âm Lịch);
(21) Đoạn Kiều Quan (斷橋關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Dần, Mão, chớ qua cầu dài, thuyền nông, chớ đi thuyền qua cầu tre;
(22) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh năm Tỵ, Hợi, tháng 1, 2 gặp giờ Thìn, Tỵ, chớ đến gần trước mặt công trình xây dựng, Động Thổ, kỵ ngồi xe con nít;
(23) Kim Tỏa Quan (金鎖關), là những người sanh tháng 1, 2 gặp giờ Thân, Mão; tháng 1, 7 gặp giờ Thân; tháng 2, 8 gặp giờ Dậu; tháng 3, 9 gặp giờ Tuất; tháng 4, 10 gặp giờ Hợi; tháng 5, 11 gặp giờ Tý; tháng 6, 12 gặp giờ Sửu, coi chừng dây tiền, mảnh sắt, vàng, đồng rơi vào miệng, hoặc sinh tật bệnh chết yểu;
(24) Bách Nhật Quan (百日關), là những người sanh tháng 1, 4, 7, 10 gặp giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi; tháng 2, 5, 8, 11 gặp giờ Dần, Thân, Tỵ, Hợi; tháng 3, 6, 9, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Mão, Dậu, sanh ra trong vòng 100 ngày, không nên đến nhà bà ngoại, sợ gặp tai họa, không nên ra khỏi nhà, kỵ đi xa, sợ trúng kinh phong;
(25) Vô Tình Quan (無情關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Dần, Dậu; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Tỵ, Tuất, Hợi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Sửu, Thân; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, trong thời gian còn nhỏ ít nên đến nhà bà ngoại, tránh cho em nhỏ nhìn thấy người mài dao, nên lạy thần thánh làm cha nuôi, gọi cha mẹ là chú, cô, dì;
(26) Cấp Cước Quan (急腳關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Tý, Hợi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Mão, Mùi; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dần, Tuất; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, Thìn, chớ nên đi xa, chớ xem lễ Thượng Lương, Động Thổ, xây dựng;
(27) Dục Bồn Quan (浴盆關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Thân, ba buổi sáng kỵ tắm rửa thân thể, khi tắm rửa nên thận trọng;
(28) Tướng Quân Tiễn (將軍箭), là những người sanh năm Thìn, Dậu, Tuất gặp giờ Mùi, tất sẽ làm tổn thương người thân ruột thịt, không bắn người khác cũng như chính mình, chớ vào miếu thờ Tướng Quân;
(29) Huyết Quang Quan (血光關), là những người sanh vào giờ Sửu tháng 1, giờ Mùi tháng 2, giờ Dần tháng 3, giờ Thân tháng 4, giờ Mão tháng 5, giờ Dậu tháng 6, giờ Thìn tháng 7, giờ Tuất tháng 8, giờ Tỵ tháng 9, giờ Hợi tháng 10, giờ Ngọ tháng 11, giờ Tý tháng 12, dễ bị tai họa chảy máu, hay họa về xe và trúng thương tích, nên dùng tiền bổn mạng và tiền trị nguy hại về xe để khắc chế;
(30) Thủy Hỏa Quan (水火關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Mùi, Tuất; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Sửu, Thìn; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Dậu; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Sửu, chủ yếu chú ý về nước nóng, lửa, không nên đến gần nhà bếp, gần nước, lửa;
(31) Diêm Vương Quan (閻王關), là những người sanh tháng 7, 8, 9, 10, 12 gặp giờ Tý, Ngọ, Dần, Mão; tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Mùi; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Tuất; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Tý, Ngọ; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Mão, không nên đến gần miếu âm cung, đền Thành Hoàng (城隍);
(32) Tứ Quý Quan (四季關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 gặp giờ Sửu, Tỵ; tháng 4, 5, 6 gặp giờ Thìn, Thân; tháng 7, 8, 9 gặp giờ Hợi, Mùi; tháng 10, 11, 12 gặp giờ Dần, Tuất, một đời nhiều bệnh, trước khí tiết của bốn mùa, chớ nên đi xa để đề phòng tai ương;
(33) Tứ Trụ Quan (四柱關), là những người sanh giờ Thìn, Tỵ, tháng 1, 2 thuộc năm Tỵ, Hợi, em nhỏ nếu phạm quan sát này, cha mẹ không sống lâu với mình, kỵ ngồi xe ngựa, lan can, ghế tre;
(34) Đa Ách Quan (多厄關), người nam sinh năm thuộc Kim, gặp tháng 5, 6; sinh năm thuộc Mộc, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Thủy, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này; nữ sinh năm thuộc Kim, tháng 8, 9; sinh năm thuộc Mộc, tháng 11, 12; sinh năm thuộc Thủy, tháng 2, 3; sinh năm thuộc Hỏa, tháng 5, 6; sinh năm thuộc Thổ, tháng 1, 4, phạm loại Quan Sát này tai ách liên tục hằng năm;
(35) Kiếp Sát Quan (劫煞關), là những người sinh năm Thân, Tý Thìn, thuộc tháng 4; năm Tỵ Dậu, Sửu thuộc tháng 1; năm Dần, Ngọ, Tuất thuộc tháng 10; năm Hợi, Mão Mùi thuộc tháng 7, nên thận trọng đề phòng tiền tài hao tổn;
(36) Cơ Bại Quan (基敗關), là những người sanh tháng 1, 2, 3 thuộc giờ Mùi, Tuất, Hợi; tháng 4, 5, 6 thuộc giờ Tý, Thìn, Tỵ; tháng 7, 8, 9 thuộc giờ Sửu, Thân, Dậu; tháng 10, 11, 12 thuộc giờ Dần, Mão, Ngọ, sau khi sinh ra, trạng huống thân thể khác lạ, khó nuôi, kỵ đào đất, nên lạy thần minh xin làm con nuôi, chú ý trị liệu về ruột, mới có thể chuyển nguy thành an.
Trong tác phẩm Dụ Thế Minh Ngôn (喻世明言) của Bằng Mộng Long (馮夢龍, 1574-1646) quyển 28 Lý Tú Khanh Nghĩa Kết Hoàng Trinh Nữ (李秀卿義結黃貞女) có câu: “Ấu niên gian đa nương dữ ngã toán mạng, thuyết hữu Quan Sát nan dưỡng, vi thử xuyên phá lưỡng nhĩ (幼年間爹娘與我算命、說有關煞難養、爲此穿破兩耳, lúc còn nhỏ cha mẹ xem mạng số cho tôi, bảo rằng bị Quan Sát khó nuôi, vì đó mà phá lũng hai tai).”
(s: stūpa, p: thūpa, 塔): âm dịch là Tốt Đổ Bà (窣睹婆、窣堵婆), Tốt Đổ Ba (窣堵波), Tốt Đô Bà (窣都婆), Tẩu Đẩu Bà (藪斗婆), Tẩu Đẩu Ba (數斗波), Tô Thâu Bà (蘇偷婆), Tố Đổ Ba (素睹波), Suất Đô Bà (率都婆), Tốt Đô Bà (卒都婆); dịch tắt là Tháp Bà (塔婆), Thâu Bà (偷婆), Đâu Bà (兜婆), Phật Đồ (佛圖), Phù Đồ (浮圖、浮屠), Phật Tháp (佛塔); ý dịch là cao hiển xứ (高顯處), công đức tụ (功德聚), phương phần (方墳), viên trũng (圓塚), đại trũng (大塚), trũng (塚), phần lăng (墳陵), tháp miếu (塔廟), miếu (廟), quy tông (歸宗), đại tụ (大聚), tụ tướng (聚相), linh miếu (靈廟). Nguyên lai chỉ cho nơi an trí vật Xá Lợi, v.v., của đức Phật, lấy gạch ngói, v.v., dựng thành vật kiến trúc; nhưng đời sau phần lớn hỗn đồng với nghĩa Chi Đề (s: caitya, 支提), mà chỉ chung cho nơi đức Phật Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân, Nhập Niết Bàn, nơi các đức Phật quá khứ kinh hành, thánh địa liên quan đến tiền sanh của đức Phật, hang Bích Chi Phật (s: pratyeka-buddha, 辟支佛), cho đến những nơi an trí tượng chư Phật, Bồ Tát, hay di cốt của chư vị cao tăng, Tổ sư, v.v. người ta thường lấy đất, đá, gạch ngói, gỗ, v.v., xây dựng nên vật kiến trúc để lễ bái cúng dường. Tuy nhiên, Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律, Taishō Vol. 22, No. 1425) quyển 33, Pháp Hoa Nghĩa Sớ (法華義疏, Taishō Vol. 34, No. 1721) quyển 11, v.v., phân biệt rõ rằng nơi nào có Xá Lợi đức Phật thì gọi là Tháp, nơi nào không có là Chi Đề. Căn cứ vào đó, 8 ngôi tháp có an trí Xá Lợi đức Phật ở Câu Thi Na (s: Kuśinagara, p: Kusinagara, 拘尸那), Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), v.v., là Tốt Đổ Ba; còn các ngôi tháp nơi đức Phật đản sanh ở Ca Tỳ La Vệ (s: Kapilavastu, p: Kapilavatthu, 迦毘羅衛), nơi Thành Đạo dưới cây Bồ Đề ở Phật Dà Già Da (s: Buddha-gayā, 佛陀伽耶), nơi Chuyển Pháp Luân ở Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), nơi đại thần thông của Tinh Xá Kỳ Viên (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), nơi có ba đường bậc cấp báu (khi đức Phật từ trên cung trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa, 忉利] xuống) ở gần khúc Nữ Thành (曲女城), nơi tuyên thuyết kinh điển Đại Thừa ở núi Kỳ Xà Quật (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), nơi cư sĩ Duy Ma Cật (s: Vimalakīrti, 維摩詰) thị hiện tướng bệnh ở Am La Vệ Lâm (菴羅衛林), nơi đức Phật nhập Niết Bàn ở rừng Sa La (沙羅), v.v., được gọi là Bát Đại Linh Tháp (八大靈塔, tám ngôi tháp lớn linh thiêng), đều thuộc về Chi Đề. Về nguồn gốc tạo dựng tháp, có thể suy tận thời đại đức Phật, như Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 56 cho biết rằng trưởng giả Tu Đạt (p: Sudatta, 須達) đã từng cầu xin lấy tóc và móng tay của đức Phật, dựng tháp thờ cúng dường. Hay Ma Ha Tăng Kỳ Luật quyển 33 có ghi rằng vua Ba Tư Nặc (s: Prasenajit, p: Pasenadi, 波斯匿) cũng từng bắt chước đức Phật, kiến lập tháp Phật Ca Diếp (s: Kāśyapa Buddha, 迦葉佛) để lễ bái cúng dường. Sau khi đức Phật nhập diệt, có 8 quốc gia như Ba Bà (波婆), Nhân Già La (人遮羅), La Ma Già (羅摩伽), v.v., nhờ Bà La Môn Hương Tánh (香姓) phân chia Xá Lợi cho, các nước ấy đều tự đem trở về dựng tháp cúng dường; và đây được xem như là khởi điểm của việc kiến tạo Tốt Đổ Ba. Ngoài ra, theo A Dục Vương Truyện (阿育王傳, Taishō Vol. 50, No. 2042) quyển 1, Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 1, v.v., cũng cho biết thêm rằng sau khi đức Phật diệt độ khoảng 200 năm, nhân dịp quân lâm đến vương quốc Ma Kiệt Đà, vua A Dục (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育) đã cho kiến lập 84.000 bảo tháp ở khắp các địa phương của lãnh thổ này. Theo khảo chứng của học giả Nhật Bản là Dật Kiến Mai Vinh (逸見梅榮, Henmi Baiei, 1891-1977), cổ tháp trong di tích Sanchi, ngói tạo tháp ở vị trí trung tâm được vua A Dục làm từ thời xưa. Nếu nói chung về nghĩa của Tháp (gồm Tháp Bà lẫn Chi Đề), có rất nhiều kiến trúc nổi tiếng trên khắp thế giới, tỷ dụ như: (1) Tháp của di tích Bharhut (巴赫特, Ba Hách Đặc) ở miền Trung Ấn, thân tháp đã bị đỗ nát hoàn toàn, chỉ còn lại lan can bằng đá, cổng đá; suy định thuộc loại cổ tháp, được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN, dưới thời vua Huân Ca (熏迦). (2) Lan can đá cổ ở vùng phụ cận Đại Tháp Phật Đà Già Da, được dựng vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN. (3) Các Chi Đề ở những di tích Phật Giáo trứ danh như hang động thứ 10 của Ajanta (阿旃多, A Chiên Đa), hang động thứ 17 của Nāsik (那西克, Na Tây Khắc), ở Kārlī (迦利, Ca Lợi), Bedsā (貝德沙, Bối Đức Sa), v.v., đều được tạo dựng vào khoảng từ thế kỷ thứ 2 đến thứ 1 trước CN; là các di sản tiểu biểu quan trọng của tháp Phật thời cổ đại. (4) Ca Nị Sắc Ca (s: Kaniṣka, p: Kanisika, 迦膩色迦) của nước Kiền Đà La (s, p: Gandhāra, 犍馱羅) thuộc Bắc Ấn, vị vua thống trị vào khoảng thế kỷ thứ 1 sau CN, đã từng kiến lập một ngôi tháp cao đến 32 thước dưới Tuyết Sơn thuộc nước Ca Tất Thí (s: Kapiśa, 迦畢試). Rồi nhà vua lại cho dựng ngôi Tước Ly Phù Đồ (雀離浮圖) ở nước Kiền Đà La, cao hơn 220 thước, gồm 13 cấp; cho nên Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, Taishō Vol. 51, No. 2092) quyển 5 gọi đó là “Tây Vức Phù Đồ tối vi đệ nhất (西域浮圖最爲第一, ngôi tháp số một trong những ngôi tháp ở Tây Vức [Ấn Độ]).” (5) Tại địa phương Kiền Đà La còn có một số di tích tháp cổ, đều được kiến tạo vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước sau CN cho đến thế kỷ thứ 2, 3 sau CN; như tháp Đạt Nhĩ Mã Lạp Tư Sá (達爾瑪拉茲卡, Darmarajka), Mã Ni Kháp Lạp (瑪尼恰拉, Manikyala), Tháp Khố Đặc Y Ba Hy (塔庫特伊巴希, Takt-i-Bahi), Á Lực Mã Tư Cát Đức (亞力瑪斯吉德, Ali Masjid), v.v. (6) Tại địa phương A Nậu La Đà Bổ La (阿㝹羅陀補羅, Anuradhapura) của Tích Lan (錫蘭, Sri Lanka), vẫn còn mấy tòa cổ tháp, trong đó có Tháp Viên (p: Thūpārāma, 塔園) do vua Thiên Ái Đế Tu (p: Devānampiya-tissa, 天愛帝須) kiến lập, được xem như là ngôi tháp xưa nhất của đất nước này. Lại có Vô Úy Sơn Phật Tháp (p: Abhayagiri, 無畏山佛塔) được vua Bà Tha Già Mã Ni (p: Vaṭṭagāmaṇi, 婆他伽馬尼) kiến lập vào khoảng thế kỷ thứ 1 trước CN, cao hơn 120 thước, đường kính đáy tháp khoảng 115 thước. Ngoài ra, ngôi Lỗ Uyển Duy Lợi Tháp (魯宛維利塔, Ruwanveli) vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước CN, được xem như tháp cổ nổi tiếng nhất. (7) Ngôi Thụy Đức Cung Phật Tháp (瑞德宮佛塔, Shwedagon) ở thủ đô Rangoon (蘭貢, Lan Cống), Miến Điện (緬甸, Myanmar), thân tháp cao đến 118 thước. Ngôi Tu Mã Đỗ Tháp (修瑪杜塔, Shwemaudau) ở cố đô Pegu (庇古, Tí Cổ), cao 102 thước; tầng bên ngoài tháp đều được trang sắc bằng vàng ròng, chung quanh có mấy mươi tòa tháp nhỏ. Bên cạnh đó, còn có Tô Lôi Tháp (蘇雷塔, Soolay) ở Rangoon; vùng phụ cận của Mandalay cũng có khoảng 450 ngôi tháp nổi tiếng khác. Tại Pagan có một số như Đạt Tân Vưu Tháp (達濱尤塔, Tapinyu), Cáo Đạt Ba Lâm Tháp (告達巴林塔, Gauda-palin), A Nan Đà Tháp (阿難陀塔, Ānanda), v.v. (8) Tại Thái Lan, có rất nhiều tháp Phật vẫn còn tại cố đô Ayuthia (猶地亞, Do Địa Á). Ngoài ra, ngôi Phỉ Lạp Thác Mỗ Ma Yết Đề Tháp (菲拉托姆麻歇提塔, Phra-Thomma chedi) tại thủ đô Bangkok (曼谷, Mạn Cốc), thân tháp cao đến 125 thước; ngôi Thanh Tự Tháp (青寺塔, Wat Ching), đều là những kiến trúc Phật Giáo trứ danh. (9) Các ngôi Duy Ân Thường Tháp (維恩常塔, Vienchang), Khoa Ma Nghênh Tháp (科摩迎塔, Chom-yong) của Lào, đều là những ngôi tháp cổ quan trọng. (10) Ngôi Bà La Phù Đồ (婆羅浮屠, Buro-Budur) ở xứ Java (爪哇, Trảo Oa) là ngôi tháp có quy mô rộng lớn, hình tứ giác, trên đỉnh có một tòa tháp lớn, chung quanh bao bọc bởi 72 tháp nhỏ với hình dáng tương đồng với tháp lớn kia; trong mỗi tháp có an trí tượng Phật, toàn bộ thể hiện hình dáng Kim Tự Tháp của Ai Cập; mỗi tháp dài rộng 123 thước, cao 42 thước, được xem như là Thánh địa vĩ đại nhất, hùng tráng nhất hiện tồn của Phật Giáo Đại Thừa trên toàn cầu. (11) Tại Nepal (尼泊爾, Ni Bạc Nhĩ), có ngôi Tư ổ Nhã Mỗ Bố Na Đức Tháp (斯塢雅姆布那德塔, Swuyambhūnāth) ở Katmandu (加德滿都, Gia Đức Mãn Đô) cũng rất to lớn, hình trạng giống như bình bát úp xuống; trên có mấy mươi tầng vòng tròn, trên đỉnh tháp có bảo cái. (12) Tháp tại Tây Tạng được gọi là Lạt Ma Tháp (喇嘛塔), nhưng trong nước này có khá nhiều tháp nhỏ. (13) Tại Trung Quốc, ở phương Bắc, Đông Bắc cũng như Mông Cổ, vẫn còn rất nhiều tháp lớn; như Lợi Tự (利寺, Leh) ở Ladakh (拉達克, Lạp Đạt Khắc); ngôi Bố Đạt Lạp Miếu (布達拉廟) ở Nhiệt Hà (熱河). Những ngôi tháp có quy mô hoành tráng tại 4 ngôi chùa ở Đông Tây Nam Bắc của Thẩm Dương (瀋陽), Liêu Ninh (遼寧); tại Đại Tháp Viện Tự (大塔院寺) trên Ngũ Đài Sơn (五臺山) vùng Sơn Tây (山西); Tịnh Minh Tự (淨明寺) ở Thái Nguyên (太原), Sơn Tây; Vĩnh An Tự (永安寺), Diệu Ứng Tự (妙應寺) ở Bắc Bình (北平), v.v. Trong số đó, ngôi tháp ở Đại Tháp Viện Tự cao 86 thước, thuộc loại lớn nhất. Việc kiến tạo tháp Phật tại Trung Quốc khởi đầu từ thời Tam Quốc (三國, nghĩa hẹp là 220-280), tức nhân sự kiện Ngô chúa Tôn Quyền (孫權, tại vị 229-252) cảm đắc Xá Lợi nơi cao tăng Khương Tăng Hội (康僧會, ?-280), vô cùng thán phục, bèn xây tháp cúng dường, lấy hiệu là Kiến Sơ Tự (建初寺). Lúc bấy giờ là năm thứ 3 (240) niên hiệu Xích Ô (赤烏). Tuy nhiên, nếu theo Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀, Taishō Vol. 49, No. 2035) quyển 54 ghi chép, ngôi tháp tại Bạch Mã Tự (白馬寺) được kiến lập vào năm thứ 10 (67) niên hiệu Vĩnh Bình (永平) đời vua Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Đông Hán, là tháp xưa nhất của Trung Quốc. Sau đó, sự tích kiến lập tháp trãi qua các triều đại rất nổi tiếng. Như vào năm thứ 2 (281) niên hiệu Thái Khang (太康) đời vua Võ Đế Tư Mã Viêm (武帝司馬炎, tại vị 266-290) nhà Tây Tấn, tăng sĩ Huệ Đạt (慧達) cảm đắc một tòa bảo tháp cao khoảng 45 thước, rộng 22 thước ở Huyện Mậu (鄮縣), Triết Giang (浙江), bèn dựng tháp để an trí tháp ấy. Đến năm đầu (516) niên hiệu Hy Bình (熙平) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ (孝明帝元詡, tại vị 515-528) nhà Bắc Ngụy, Linh Thái Hậu họ Hồ sai thợ kiến lập một tòa tháp bằng gỗ cao 9 tầng tại Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), Lạc Dương (洛陽); tháp này cao đến 320 thước, cả ngoài trăm dặm đều có thể nhìn thấy được; nơi mái tháp có treo phong linh, thường phát ra âm thanh du dương, thanh thoát khi gió thoảng qua; tiếc thay tháp này hiện không còn nữa. Trong khoảng niên hiệu Chánh Quang (正光, 520-524) đời vua Hiếu Minh Đế Nguyên Hủ, tại Tung Nhạc Tự (嵩嶽寺) ở Tung Sơn (嵩山), Hà Nam (河南), có tạo dựng một ngôi tháp bằng gạch nung, cao khoảng 64 thước, có 12 góc, 15 tầng, được xem như là ngôi tháp tối cổ của Trung Quốc. dưới thời vua Dương Đế (煬帝, tại vị 604-618) nhà Tùy, nhà vua đã từng vì Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397), kiến lập một ngôi tháp cũng bằng gạch tại Quốc Thanh Tự (國清寺) trên Thiên Thai Sơn (天台山), cao khoảng 74 thước. Chính vua Thái Tông (太宗, tại vị 626-649) nhà Đường cũng từng đáp ứng lời thỉnh cầu của Đại Sư Huyền Trang (玄奘, 602-664) cho dựng một tòa tháp bằng gạch nung cao 58 thước tại Đại Từ Ân Tự (大慈恩寺), Tây An (西安). Ngoài ra, số lượng tháp được tạo dựng ở các tự viện Trung Quốc qua các triều đại, nhiều không thể kể xiết; nhưng nếu nói về loại bằng gỗ hiện tồn thì rất ít. Sau thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) trở đi, vì chịu ảnh hưởng của văn hóa Lạt Ma Giáo, dạng thức của tháp cũng biến thành gọi là “hình thức bạch tháp (白塔式).” Dạng thức này vốn xuất phát từ Bắc Ấn và Đại Nguyệt Thị (大月氏), như Bạch Tháp ở Bắc Hải (北海), Bắc Bình (北平); Xá Lợi Tháp (舍利塔) ở Pháp Hải Tự (法海寺) thuộc Giang Đô (江都), Giang Tô (江蘇); Bách Linh Miếu Tháp (百靈廟塔) ở Võ Châu (武川), v.v., đều có quy chế kiến tạo khác xa với truyền thống của Trung Quốc. Về phía Nhật Bản, vào tháng 2 năm thứ 14 (585) đời Mẫn Đạt Thiên Hoàng (敏達天皇, Bidatsu Tennō, tại vị 572-585), đại thần Tô Ngã Mã Tử (蘇我馬子, Soga-no-Umako, ?-626) kiến lập một ngôi tháp trên phía Bắc đồi Đại Đã (大野, Ōno); trên đầu trụ tháp có an trí Xá Lợi do nhóm Tư Mã Đạt (司馬達) dâng cúng. Đây được xem như là tháp đầu tiên tại đất nước Phù Tang này. Đến năm thứ 15 (606) đời Suy Cổ Thiên Hoàng (推古天皇, Suiko Tennō, tại vị 592-628), Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi, 574-622) tạo lập một ngôi Ngũ Trùng Tháp (五重塔, tháp năm tầng) tại Pháp Long Tự (法隆寺, Hōryū-ji), cho đến nay vẫn còn và được đánh giá như là tháp bằng gỗ tối cổ của thế giới. Theo Tục Nhật Bản Kỷ (續日本紀, Shokunihongi) quyển 30 cho biết, vào năm thứ 8 (764) niên hiệu Thiên Bình Bảo Tự (天平寶字), Hiếu Khiêm Thiên Hoàng (孝謙天皇, Kōken Tennō, tại vị 749-758) phát nguyện tạo dựng 1.000.000 ngôi tháp 3 tầng bằng gỗ, cao 15 thước, mãi cho đến năm đầu (770) niên hiệu Bảo Quy (寶龜) mới hoàn thành; đem an trí tại các chùa trên toàn quốc. Về chủng loại của tháp thì có rất nhiều, lấy dạng thức mà phân biệt, có các loại như tháp hình thức như cái bát úp xuống, tháp như khám thờ, tháp hình trụ, tháp nhạn, tháp nhà, tháp không vách, tháp Lạt Ma, tháp 37 tầng, tháp 17 tầng, tháp 15 tầng, tháp 13 tầng, tháp 9 tầng, tháp 7 tầng, tháp 5 tầng, tháp 3 tầng, tháp vuông, tháp tròn, tháp hình lục giác, tháp hình bát giác, đại tháp, tháp Đa Bảo, tháp Du Kỳ (瑜祇), tháp Bảo Khiếp Ấn (寶篋印), tháp 5 vòng tròn, tháp quả trứng, tháp vô phùng, tháp kiểu lầu gác, tháp mái rèm kín, tháp Kim Cang Bảo tòa (金剛寶座), mộ tháp, v.v. Nếu phân biệt theo vật cất giữ bên trong tháp thì có tháp Xá Lợi, tháp tóc, tháp móng tay, tháp răng, tháp y áo, tháp bình bát, tháp chơn thân, tháp thân bằng tro, tháp thân đã hủy hoại, tháp bình, tháp Hải Hội (海會), tháp Tam Giới Vạn Linh (三界萬靈), tháp một chữ một viên đá, v.v. Nếu lấy vật liệu dựng tháp mà phân biệt thì có tháp bằng gạch nung, tháp bằng gỗ, tháp bằng đá, tháp bằng ngọc, tháp bằng cát, tháp bằng bùn, tháp bằng đất, tháp bằng phân, tháp bằng sắt, tháp bằng đồng, tháp bằng vàng, tháp bằng bạc, tháp bằng thủy tinh, tháp bằng Pha Lê, tháp bằng Lưu Ly, tháp bằng ngà voi, tháp bằng bảo vật, tháp bằng hương, v.v. Nếu lấy ý nghĩa tính chất mà phân biệt thì có tháp cầu phước, tháp báo ân, tháp Pháp Thân, tháp trường thọ, v.v. Nếu theo dạng thái của vị trí bày biện tháp mà phân biệt thì có tháp dạng đứng một mình, tháp dạng đối lập, tháp theo dạng hàng dọc, tháp theo dạng đứng hình vuông, v.v. Trong các dạng thức vừa nêu trên, loại tháp như cái bát úp xuống là tối cổ. Trong Thí Dụ Kinh (譬喻經, Taishō Vol. 4, No. 217) có nêu ra 10 loại công đức thù thắng của việc tạo tháp: (1) Không sanh vào nước biên giới xa xôi; (2) Không chịu sự nghèo nàn khốn khổ; (3) Không có thân ngu si, tà kiến; (4) Có thể đạt được ngôi vị vua của 16 nước lớn; (5) Thọ mạng lâu dài; (6) Có thể đạt được sức mạnh Kim Cang Na La Diên (金剛那羅延); (7) Có thể đạt được phước đức to lớn không sánh bằng; (8) Nhận được từ bi của chư Phật Bồ Tát; (9) Đầy đủ Ba Minh, Sáu Thần Thông, Tám Giải Thoát; (10) Được vãng sanh về cõi Tịnh Độ ở mười phương. Ngoài ra, Phật Thuyết Tạo Tháp Công Đức Kinh (佛說造塔功德經, Taishō Vol. 16, No. 699), Phật Thuyết Tạo Tháp Diên Mạng Công Đức Kinh (佛說造塔延命功德經, Taishō Vol. 19, No. 1026), v.v., cũng nêu ra các công đức như được sống lâu, sanh lên cõi trời, diệt 5 tội Vô Gián, thành Phật, v.v. Riêng trong Hữu Nhiễu Phật Tháp Công Đức Kinh (右繞佛塔功德經, Taishō Vol. 16, No. 700) nhấn mạnh rằng nhiễu quanh tháp thì có thể xa lìa tám nạn, đầy đủ sắc tướng kỳ diệu, có được phước mạng, của báu, cho đến làm thầy của Trời và người, v.v. Đề Vị Kinh (提謂經) cũng nêu ra 5 loại công đức của việc nhiễu quanh tháp: (1) Đời sau có được tướng tốt đoan chánh; (2) Được âm thanh tốt; (3) Được sanh lên cõi Trời; (4) Được sanh vào nhà vương hầu; (5) Chứng quả Niết Bàn. Nhiễu quanh tháp có hình thức nhất định là thường đi nhiễu bên phải, đầu cúi thấp nhìn xuống đất, không được đạp nhầm lên côn trùng trên mặt đất, không được nhìn hai bên phải trái, không được khạc nhổ trước tháp, không được đứng trong tháp nói chuyện với người. Bên cạnh việc tạo tháp, nhiễu tháp như vừa nêu trên, việc tu sửa tháp, quét tháp, lễ bái tháp, v.v., cũng đều có công đức không phải nhỏ. Trong Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記, Taishō Vol. 51, No. 2087) quyển 7, chương Ni Ba La Quốc (尼波羅國), có đoạn: “Tinh Xá Tây Nam hữu thạch Tốt Đổ Ba, Vô Ưu vương kiến dã (精舍西南有石窣堵波、無憂王建也, phía Tây Nam Tinh Xá có tháp bằng đá, do vua Vô Ưu kiến lập).”
(祥光): ánh sáng, hào quang tốt lành, tượng trưng cho điềm lành. Như trong bài Tuyên Đức Hoàng Hậu Đôn Khuyến Lương Vương Lịnh (宣德皇后敦勸梁王令) của Nhiệm Phưởng (任昉, 460-508) nhà Lương thời Nam Triều có đoạn: “Phong công hậu lợi, vô đắc nhi xưng, thị dĩ tường quang tổng chí, hưu khí tứ tắc (豐功厚利、無得而稱、是以祥光總至、休氣四塞, công lợi to lớn, không có mà thổi phồng lên, vì vậy điềm lành thảy đến, khí tốt bốn phương).” Trong Phật Tổ Cương Mục (佛祖綱目, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1594) quyển 11, phần Thập Tổ Hiếp Tôn Giả Truyền Pháp Phú Na Dạ Xà (十祖脅尊者傳法富那夜奢), có đoạn: “Hiếp Tôn Giả, trung Ấn Độ nhân, bổn danh Nan Sanh, xử thai lục thập nguyệt, tương đản chi tịch, mẫu mộng bạch tượng tải nhất Bảo tòa, tòa trí nhất minh châu, tùng môn nhi nhập, ký giác toại sanh, sanh nhi tường quang chúc thất, thể hữu kỳ hương (脅尊者、中印度人、本名難生、處胎六十年、將誕之夕、母夢白象載一寶座、座置一明珠、從門而入、既覺遂生、生而祥光燭室、體有奇香, Hiếp Tôn Giả, người miền trung Ấn Độ, tên là Nan Sanh, ở trong bào thai mẹ mười sáu tháng; vào đêm sắp sanh, mẹ ông mộng thấy con voi trắng chở một tòa báu, trên tòa ấy có đặt một viên ngọc sáng, con voi từ cửa đi vào; khi tỉnh dậy thì sanh ra ông, khi sanh thì hào quang tỏa sáng căn phòng, thân có mùi hương thơm lạ).” Hay trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 77, No. 1524) quyển 19, phần Nhị Tiêu Sư Truyện (二蕭師傳), lại có đoạn: “Sư chí Tống Gia Hy gian, thỉ nhập diệt, trụ thế tam bách dư tuế, hỏa hóa ư Phụng Quan nham, tường quang chúc thiên, dị hương phổ văn (師至宋嘉熙間、始入滅、住世三百餘歲、火化於鳳冠巖、祥光燭天、異香普聞, đến trong khoảng thời gian niên hiệu Gia Hy [1237-1240] nhà Tống, sư mới bắt đầu nhập diệt, sống ở đời được hơn ba trăm tuổi, hỏa táng tại núi Phụng Quan, hào quang rực trời, hương lạ ngát khắp).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập