Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Bản Địa Thùy Tích »»
(權現, gongen): quyền (權) nghĩa là quyền nghi, ứng cơ; hiện (現) là hóa hiện; tức chỉ chư phật bồ tát vì độ khắp chúng sanh mà quyền xảo hóa hiện các loại hình tướng; đồng nghĩa với quyền hóa (權化), quyền tích (權迹), ứng hiện (應現), thị hiện (示現), hóa hiện (化現), v.v. Như trong Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō Vol. 16, No. 665), Phẩm Như Lai Thọ Lượng (如來壽量品) thứ 2, quyển 1 có câu: “Thế Tôn Kim Cang thể, quyền hiện ư Hóa Thân (世尊金剛體、權現於化身, Thế Tôn thể Kim Cang, quyền hiện nơi Hóa Thân).” Hay trong Tục Đăng Chánh Thống (續燈正統, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 84, No. 1583) quyển 3, phần Thiệu Hưng Phủ Đông Sơn Giác Thiền Sư (紹興府東山覺禪師), lại có đoạn: “Kim thời tùng lâm, tương vị Quảng Ngạch quá khứ thị nhất Phật, quyền hiện đồ nhi (今時叢林、將謂廣額過去是一佛、權現屠兒, tùng lâm ngày nay cho rằng Quảng Ngạch quá khứ là một vị Phật, hóa hiện làm đồ tể).” Hoặc trong Pháp Hoa Kinh Chỉ Chưởng Sớ (法華經指掌疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 33, No. 631) cũng có đoạn: “Nhiên Đạt Đa tuy xưng quyền hiện, nhân hại Phật cố, bất miễn Địa Ngục chi khổ (然達多雖稱權現。因害佛故。不免地獄之苦, tuy nhiên, Đề Bà Đạt Đa tuy gọi là quyền hiện, nhưng vì hại Phật, nên không thoát khỏi cái khổ của Địa Ngục).” Quyền hiện cũng là một trong những tư tưởng đặc trưng của Phật Giáo Nhật Bản. Sau khi Phật Giáo được vào xứ sở Phù Tang này, Thần Đạo trở thành địa vị phụ thuộc, và đến cuối thời kỳ Bình An (平安, Heian, 794-1185), thuyết gọi là Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, honjisuijaku) bắt đầu thịnh hành. Từ thời Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) trở đi, việc tiếp cận với chư thần của Phật Giáo dần dần được tiến hành. Với tư cách là chúng sanh phàm phu đầy phiền não, chư thần linh cũng tôn kính Phật Giáo; cho nên việc đọc kinh trước thần linh, các Thần Cung Tự (神宮寺), Trấn Thủ Tự (鎭守寺) cũng được kiến lập. Vào khoảng đầu thời Bình An, các thần dần dần khai ngộ và địa vị của họ cũng được nâng cao. Tỷ dụ như trường hợp Thạch Thanh Thủy Bát Phan Thần (石清水八幡神) đã đạt đến danh hiệu Bồ Tát. Sau đó, trong văn thư của Thái Tể Phủ (太宰府, Dazaifu) gởi cho đền thờ Cừ Khi Bát Phan Cung (筥崎八幡宮, Hakozakihachimangū) vào năm 937 (Thừa Bình [承平] thứ 7), có đoạn văn gọi Bát Phan Thần là quyền hiện. Hay trong tác phẩm Tẩu Thang Duyên Khởi (走湯緣起, Sōtōengi) có các văn thư ghi năm 812 (Hoằng Nhân [弘仁] thứ 3) cũng như 904 (Diên Hỷ [延喜] thứ 4), có thể thấy từ quyền hiện. Đến giữa thời Bình An, chư thần tiến đến rất gần với địa vị của Phật. Trong bức Cúng Dường Nguyện Văn (供養願文) do ca nhân Đại Giang Khuông Hành (大江匡衡, Ōe-no-Masahira, 952-1012) viết khi đến tham bái đền thờ Nhiệt Điền Thần Xã (熱田神社, Atsuta Jingū) ở tiểu quốc Vĩ Trương (尾張, Owari) vào năm 1004 (Khoan Hoằng [寬弘] nguyên niên), ông viết là thùy tích của Nhiệt Điền Quyền Hiện (熱田權現, Atsutagongen). Cũng vào năm thứ 4 (1007) cùng niên hiệu trên, trong ống kinh do Đằng Nguyên Đạo Trưởng (藤原道長, Fujiwara-no-Michinaga, 966-1027) đem thờ trên Kim Phong Sơn (金峯山) có ghi dòng chữ “Tạng Vương Quyền Hiện (藏王權現).” Trong bộ Kim Tích Vật Ngữ Tập (今昔物語集, Konjakumonogatarishū) cũng có xuất hiện từ Hùng Dã Quyền Hiện (熊野權現, Kumanogongen). Việc phổ cập hóa tư tưởng quyền hiện như vậy là đồng thể hóa Phật với Thần; và cho biết rằng đã đến thời kỳ hoàn thành thuyết Bản Địa Thùy Tích. Đến thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333), các đền thờ Thần Xã gọi tên quyền hiện bắt đầu xuất hiện như Địa Chủ (地主), Bạch Sơn (白山), Ái Đãng (愛宕), Xuân Nhật (春日), v.v. Trong tác phẩm Chư Thần Bản Hoài Tập (諸神本懷集, Shojinhongaishū) do Tồn Giác (存覺, Zonkaku, 1290-1373) viết vào cuối thời kỳ Liêm Thương, chia thần thành hai loại là Quyền Xã (權社) và Thật Xã (實社), cho rằng Thần của Quyền Xã là “đức Như Lai xưa kia, vì để mang lại lợi ích cho Bồ Tát, chúng sanh thâm vị, nên giả hiện thân hình thần minh”; song tất cả đều là quay về với sự giáng tích của Phật Di Đà; và cho rằng chư thần của Thật Xã thì cần phải bài xích như là tà thần. Thần Đạo mang tính thần Phật tập hợp vào thời Trung Đại, lấy tư tưởng quyền hiện làm luận cứ quan trọng. Tuy nhiên, sau khi Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu, 1542-1616) qua đời, vị tăng của Thiên Thai Tông là Thiên Hải (天海, Tenkai, 1536-1643) chủ trương thờ phụng đấng quyền hiện và xem đó như là thần hiệu của Gia Khang. Ngoài ra, các Thiên Hoàng Nhật Bản đã từng lấy danh hiệu quyền hiện để ban hiệu sắc hứa cho cấp dưới. Tỷ dụ như Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930) đã ban cho Đằng Nguyên Liêm Túc (藤原鎌足, Fujiwara-no-Kamatari, 614-669) hiệu là Đàm Sơn Quyền Hiện (談山權現); hay Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) ban cho Đức Xuyên Gia Khang hiệu là Đông Chiếu Đại Quyền Hiện (東照大權現), v.v.
(沙石集, Sasekishū hay Shasekishū): bộ sách kể chuyện Phật Giáo dưới thời đại Liêm Thương, gồm 10 quyển, do Vô Trú Đạo Hiểu (無住道曉, Mujū Dōgyō) trước tác từ năm thứ 2 (1279) niên hiệu Hoằng An (弘安) cho đến năm 6 (1283) cùng niên hiệu trên thì hoàn thành. Ban đầu tác phẩm được viết suông sẻ từ quyển 1 đến 5; nhưng rồi bị gián đoạn, dừng giữa chừng, và sau đó mới hoàn thành phần còn lại. Nếu nhìn từ tư tưởng Phật Giáo, Sa Thạch Tập thể hiện quan điểm tôn trọng việc tu hành, tư tưởng Không của Phật Giáo Đại Thừa, tư tưởng Tam Đế Viên Dung (三諦圓融) của Thiên Thai Tông, và quan niệm phủ định sự chấp trước đối với thế tục. Tác phẩm này chủ trương tính cọng thông của các tông phái, khắp nơi đều nêu rõ thái độ giảm thiểu sự luận tranh giữa các tông phái với nhau. Vô Trú được xem như là vị tăng học cả hai tông Lâm Tế và Chơn Ngôn; nên ông thể hiện rõ lập trường độc đáo dung hợp cả hai tông ấy. Ngoài Vô Trú ra, người có được lập trường như vậy không dễ mấy ai. Trong quyển 1, phần lớn ghi lại những việc liên quan đến sự tập hợp của Thần Phật, Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹). Về danh nghĩa, Sa Thạch Tập có nghĩa là “lấy vàng ra từ cát, lấy ngọc ra từ đá” với ý nghĩa thuyết Chân Đế của phật giáo từ những sự việc mang tính thế tục; là một tác phẩm văn học trích dẫn khá nhiều kinh điển từ lập trường của vị tu sĩ, tạo sự hứng thú liên tục cho độc giả. Trước tác này có nội dung đa dạng, từ câu chuyện linh nghiệm cũng như truyện chư vị cao tăng của các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, cho đến sự tình do Vô Trú thấy nghe được ở các tiểu quốc, thực tế sinh hoạt của tầng lớp thứ dân, chuyện đàm tiếu, v.v. Chính lời văn nhẹ nhàng, thanh thoát của Sa Thạch Tập đã tạo ảnh hưởng to lớn đối với Đồ Nhiên Thảo (徒然草, Tsurezuregusa), Cuồng Ngôn (狂言), Lạc Ngữ (落語) sau này.
(講, kō): tập đoàn kết chúng tập trung lại với nhau để đath thành mục đích về mặt tôn giáo, kinh tế cũng như xã giao, nên mới lấy tên là Giảng. Nếu truy tìm nguyên gốc từ Giảng này, ta thấy nó vốn phát xuất từ dụng ngữ của Phật Giáo. Có nghĩa rằng ban đầu nó là hội nghiên cứu về việc thuyết giảng kinh điển Phật Giáo của những Tăng sĩ có học thức, hay là pháp hội Phật sự làm cho uyên nguyên việc giảng đọc kinh điển, chấp hành nghi lễ Phật Giáo. Từ hội Pháp Hoa Giảng (法華講), Duy Ma Giảng (維摩講), Thắng Man Giảng (勝鬘講), cho đến Tối Thắng Giảng (最勝講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Đà La Ni Giảng (陀羅尼講), Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), v.v., đều phát xuất từ đây. Nguồn khế cơ phát sanh hội này vốn có từ thời đại sơ truyền của Phật Giáo. Sự du nhập của Phật Giáo bắt đầu bằng những vật tượng trưng như tượng Phật, phan cái, kinh điển, v.v.; nhưng đương nhiên sự thọ dung đúng nhất vẫn là việc lý giải về giáo nghĩa cũng như nghi lễ. Nỗ lực này được thể hiện qua bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ (三經義疏) do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) biên soạn vào đầu thế kỷ thứ 7. Đương nhiên cũng có nghi vấn cho rằng đây không phải là trước tác của Thái Tử; nhưng nếu ta xét về điểm thành lập của triều đại Suy Cổ (推古, Suiko), thì phần lớn đều nhất trí. Như vậy việc giảng cứu Phật điển ban đầu là trung tâm hoạt động của tự viện, rồi truyền thống này được bảo trì một thời gian lâu dài; và đến thế kỷ thứ 8 dưới triều đại Nại Lương (奈良, Nara, 710-794) thì nó đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên, việc giảng nghĩa những kinh điển Phật Giáo vốn có tính giáo học sâu xa thì lại được tiến hành song song với nghi lễ tôn giáo. Cho nên, nghi lễ còn được gọi là Pháp Hội. Chính các tổ chức như Thích Ca Hội (釋迦會) nhằm lễ tán thánh đức của Phật, Dược Sư Hội (藥師會) nhằm tán thán công đức của Phật Dược Sư; Di Lặc Hội (彌勒會) nhằm cầu nguyện Phật Di Lặc hạ sanh, v.v., đều phát xuất từ đây. Ba bộ kinh hộ quốc quan trọng gồm Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經), Nhân Vương Bát Nhã Kinh (仁王般若經), Pháp Hoa Kinh (法華經) vốn được xem như là những kinh điển hộ trì quốc gia, tất yếu phải được sử dụng tại các pháp hội ở những ngôi chùa quan, chùa lớn, chùa có định ngạch. Từ đó xuất hiện Tối Thắng Giảng Hội (最勝講會), Nhân Vương Giảng Hội (仁王講會) và Pháp Hoa Giảng Hội (法華講會). Trên cơ sở của ba hội chính này, các hội khác lần lượt ra đời như Duy Ma Giảng Hội (維摩講會), Thắng Man Giảng Hội (勝鬘講會), v.v., với khá nhiều hình thức và nội dung phong phú. Nhưng mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 9 dưới thời Bình An, việc biên tập và quy định hình thức giảng nhất định mới hình thành. Vào khoảng đầu thời Bình An, tín ngưỡng đáng chú ý nhất về Pháp Hoa được hoằng truyền từ trong tầng lớp Tăng Ni tại các tự viện cho đến xã hội thế tục bên ngoài, từ tầng lớp quý tộc trong cung đình cho đến lớp quan binh, và lan truyền đến tận dân chúng bên ngoài, trở nên rất sùng tín. Đặc biệt là các hoạt động của những người trì Kinh Pháp Hoa vốn được xem như là những người truyền giáo cuồng tín, thì quá nhiều. Ta có thể tìm thấy những hình thức hoạt động như thế này thông qua bộ Nhật Bản Linh Dị Ký (日本靈異記) cũng như Bản Triều Pháp Hoa Nghiệm Ký (本朝法華驗記), v.v. Trong đó, hội Pháp Hoa Bát Giảng (法華八講) là thịnh hành nhất từ trong cung nội cho đến ngoài dân dã. Hội này được Cần Tháo (勤操, Gonzō) ở Thạch Uyên Tự (石淵寺) vùng Đại Hòa (大和, Yamato) khởi xướng vào năm 796, sau đến đầu thế kỷ thứ 9 mới thịnh hành ngoài dân gian. Đây là pháp hội lấy 8 quyển Kinh Pháp Hoa, mỗi ngày sáng tối hai thời đọc tụng cúng dường 2 quyển, và kéo dài trong vòng 4 ngày. Ban đầu, pháp hội này được tiến hành tại Thạch Uyên Tự, nhưng dần dần người dân thường cũng tổ chức pháp hội này tại cung đình cũng như dinh phủ quan, với động cơ nhằm cúng dường truy tiến cho linh hồn người chết, hay cầu sống lâu trường thọ, hoặc kỳ nguyện vãng sanh. Với đà thịnh hành của hội Pháp Hoa Giảng này, nó đã tạo ảnh hưởng rất lớn cho các hội khác ra đời. Một số hội như Dược Sư Giảng (藥師講), Di Lặc Giảng (彌勒講), Thích Ca Giảng (釋迦講), Nhân Vương Giảng (仁王講), Tối Thắng Giảng (最勝講), v.v., lần lượt bỏ đi tên gọi pháp hội mà lấy tên Giảng. Thuận theo xu hướng thời đại, các tổ chức như A Di Đà Giảng (阿彌陀講), Bồ Đề Giảng (菩提講), Vãng Sanh Giảng (徃生講), Thập Nhị Bồ Tát Lai Nghênh Giảng (十二菩薩來迎講), Địa Tạng Giảng (地藏講), Thập Trai Giảng (十齋講), v.v., cũng liên tiếp xuất hiện. Khi những tổ chức này được phổ cập hóa, thẩm thấu vào dân gian thì chúng có nhiều cơ hội tiếp xúc với tín ngưỡng dân gian; cho nên các tập đoàn tín ngưỡng địa phương vốn dựa trên cơ sở sùng bái tự nhiên như núi, sông, nước, đá, cây, v.v., được gọi là Sơn Thần Giảng (山神講), Thủy Thần Giảng (水神講), Thạch Thần Giảng (石神講). Còn những tập đoàn tế tự, sùng bái thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng, mưa, gió, sấm, sét, v.v., có tên gọi là Nhật Đãi Giảng (日待講), Nguyệt Đãi Giảng (月待講), Long Thần Giảng (龍神講), Phong Thần Lôi Thần Giảng (風神雷神講). Hơn nữa, tư tưởng Bản Địa Thùy Tích (本地垂迹, Honjisuijaku) chính là diểm trọng yếu đã tạo khế cơ cho việc thế tục hóa cũng như dân gian hóa Phật Giáo. Tại Nhật Bản, trong các lễ tế tự ở những đền thờ Thần Xã, truyền thống từ ngàn xưa vẫn được duy trì, và thể chế tượng trưng mang tính tôn giáo của tập đoàn dân tộc được hình thành. Có nghĩa rằng tập đoàn tế tự được cấu thành với hạt nhân trung tâm là đền thờ Thần Xã để phát huy cơ năng tôn giáo. Nguyên nhân các tổ chức tế tự như thế này lấy tên Giảng của Phật Giáo, vốn phát xuất từ trào lưu thời đại của Thần Phật Tập Hợp. Vì thế trong các đền thờ Thần Xã được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, ta thấy có xuát hiện bóng dáng của Phật Giáo. Phần lớn các Thần sự đều được tổ chức dưới hình thức Giảng, và đó cũng là khế cơ nảy sinh mối giao lưu Thần Phật. Cho nên các tổ chức như Thị Thần Giảng (氏神講), Trấn Thủ Giảng (鎭守講), Quyền Hiện Giảng (權現講), Cung Tòa Giảng (宮座講), cho đến Xuân Nhật Giảng (春日講), Trú Cát Giảng (住吉講), Bát Phan Giảng (八幡講), Hùng Dã Giảng (熊野講), Y Thế Giảng (伊勢講), Tam Sơn Giảng (三山講), Tam Xã Giảng (三社講), v.v., dần dần xuất hiện trong thần đạo. Đến cuối thời Trung Đại, hoạt động sinh sản của con người phân hóa, phương hướng tạo nên cơ cấu tổ chức Giảng cũng thay đổi với lý do không những chỉ vì động cơ tín ngưỡng tôn giáo, mà còn vì lý do xã hội cũng như kinh tế. Đến thời Trung Đại, tại các tự viện có các hội như Lại Mẫu Tử Giảng (賴母子講) nhằm dung thông lẫn nhau tiền vàng, vật phẩm giữa Tăng Ni; Quân Vương Giảng (君王講) của Mộc Địa Sư (木地師), Hoang Thần Giảng (荒神講), v.v. Khuynh hướng này được kéo dài cho đến thời Cận Đại, phát huy thành nhiều hình thức Giảng mới như Điền Thần Giảng (田神講) của nông dân, Sơn Thần Giảng (山神講) của những người làm nghề sơn lâm, Hải Thần Giảng (海神講), Long Cung Giảng (龍宮講), Huệ Mỹ Tu Giảng (惠美須講) nhằm cầu nguyện cho được nhiều cá và thuận buồm xuôi gió; thêm vào đó, còn có rất nhiều tổ chức Giảng ở thành phố. Từ thời Trung Đại đến Cận Đại, biển với đất liền phát triển giao thông mạnh mẽ, người ta đi du lịch các nơi trở nên dễ dàng hơn, và mọi người có nhiều cơ hội trở về cố hương mình. Đặc biệt việc tham bái các thánh địa cũng như hành hương những ngôi già lam, đền miếu, càng lúc càng hưng thịnh; chính vì lẽ đó, tổ chức Tham Nghệ Giảng (參詣講) được hình thành. Tỷ dụ như Thiện Quang Tự Giảng (善光寺講), Thành Điền Giảng (成田講), Tam Phong Giảng (三峰講), Đại Sơn Giảng (大山講), Y Thế Giảng (伊勢講), Xuất Vân Giảng (出雲講), Bạch Sơn Giảng (白山講), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập