Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Sự toàn thiện không thể đạt đến, nhưng nếu hướng theo sự toàn thiện, ta sẽ có được sự tuyệt vời. (Perfection is not attainable, but if we chase perfection we can catch excellence.)Vince Lombardi
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Ấn Dung »»

(s: anuttara-samyak-sambodhi, p: anuttara-sammā-sambodhi, j: anokutarasammyakusambodai, 阿耨多羅三藐三菩提): cựu ý dịch là Vô Thượng Chánh Biến Tri (無上正遍[徧]知), Vô Thượng Chánh Biến Đạo (無上正遍[徧]道); tân ý dịch là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác (無上正等正覺); gọi tắt là A Nậu Tam Bồ Đề (阿耨三菩提), A Nậu Bồ Đề (阿耨菩提), v.v. Do vì nội dung của từ này không thể hiện một cách chính xác, nên trong kinh điển phần nhiều người ta vẫn dùng nguyên âm. Cụm từ này có nghĩa là đức Phật thoát ly khỏi thế giới mê muội, chứng được giác trí viên mãn, trong chân lý bình đẳng không có nơi nào không biết đến, cho nên trên thế gian ngài là bậc vô thượng (không ai trên ngài).
(表): là một loại Tấu Chương thời xưa được quần thần dùng để trình cấp lên đế vương; như Xuất Sư Biểu (出師表) của Gia Cát Lượng (諸葛亮) nhà Thục Hán thời Tam Quốc (三國, 221-420), Trần Tình Biểu (陳情表) của Lý Mật (李密, 224-287), v.v. Trong bài tựa Văn Thể Minh Biện của Từ Sư Tằng có giải thích rằng: “Cổ giả hí ngôn ư quân, giai xưng thượng thư, Hán định lễ nghĩa, nãi hữu tứ phẩm, kỳ tam viết Biểu; nhiên đản dụng dĩ trần thỉnh nhi dĩ, hậu thế nhân chi, kỳ dụng tẩm quảng (古者獻言於君、皆稱上書、漢定禮儀、乃有四品、其三曰表、然但用以陳請而已、後世因之、其用寖廣, người xưa nói đùa với nhà vua, đều gọi là dâng thư lên, nhà Hán định ra lễ nghĩa, có bốn loại, loại thứ ba là Biểu; tuy nhiên chỉ dùng để bày tỏ thỉnh cầu mà thôi; đời sau nhân đó, dùng Biểu càng lúc càng rộng rãi).”
(叡山大師傳, Eizandaishiden): 1 quyển, do Nhất Thừa Trung (一乘忠) soạn, còn gọi là Tỷ Duệ Đại Sư Truyện (比叡大師傳), Truyền Giáo Đại Sư Truyện Ký (傳敎大師傳記), Đại Sư Nhất Sanh Ký (大師一生記), được thành lập vào năm thứ 2 (825) niên hiệu Thiên Trường (天長), sau khi Truyền Giáo Đại Sư Tối Trừng (最澄, Saichō) qua đời 2 năm. Nội dung tác phẩm này thuật rõ từ khi Tối Trừng ra đời, tên họ, xuất thân, xuất gia, lên núi tu hành, học tập kinh điển, khai giảng Pháp Hoa, rồi sang nhà Đường cầu pháp, sự tích khi còn tham học bên Trung Quốc, sau đó đem truyền pháp môn Thiên Thai vào Nhật và khai sáng Thiên Thai Tông, quá trình đi tuần lễ chiêm bái ở Cửu Châu (九州, Kyūshū), Nam Đô (南都, Nanto), Quan Đông (關東, Kantō), sự nỗ lực kiến lập đại giới, di huấn và lúc thị tịch, sự vinh quang sau khi ông qua đời, danh sách những nhà ngoại hộ đắc lực, v.v. Thư tịch này còn dẫn dụng các sử liệu phong phú như những bức nguyện văn, tờ biểu dâng lên triều đình do chính tay Tối Trừng viết, sắc chiếu của vua ban cũng như Quan Phù, v.v.; là tư liệu chính xác và căn bản nhất nói về cuộc đời cũng như con người Tối Trừng. Vào năm đầu (1704) niên hiệu Bảo Vĩnh (寳永), lần đầu tiên Tú Vân (秀雲) của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) cho phổ biến dưới tên gọi là Duệ Sơn Tứ Đại Sư Truyện (叡山四大師傳); và đến năm thứ 4 (1767) niên hiệu Minh Hòa (明和) thì chính thức được san hành. Bản của Tú Vân được thâu lục vào trong Tục Quần Thư Loại Tùng (續群書類從, phần Truyện Bộ) 8, Sử Tịch Tập Lãm (史籍集覽) 12, phần Thiên Thai Tông Hiển Giáo Chương Sớ (天台宗顯敎章疏) 2 của Nhật Bản Đại Tạng Kinh (日本大藏經). Tuy nhiên, một phần của bản này bị sai lộn thứ tự, nên cần phải lưu ý khi dùng làm tham khảo. Riêng tả bản xưa nhất hiện đang được tàng trữ tại Thạch Sơn Tự (石山寺) thì vẫn còn nguyên vẹn, không bị sai sót về thứ tự như bản trên; cho nên bộ Truyền Giáo Đại Sư Toàn Tập (傳敎大師全集) thì y cứ vào bản này.
(s: danta-kāṣṭha, p: danta-kaṭṭha, danta-poṇa, 楊枝): âm dịch là Đạn Đa Gia Sắt Sá (憚哆家瑟詑), Thiền Đa Ni Sắt Sáp (禪多抳瑟插); còn gọi là xỉ mộc (齒木), tức là mảnh cây nhỏ dùng để mài răng cạo lưỡi cho sạch; là một trong 18 vật cần dùng cho vị Tỳ Kheo do Phật chế ra. Như trong Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳, Taishō Vol. 54, No. 2125) quyển 1, phần Bát Triêu Tước Xỉ Mộc (八朝嚼齒木), giải thích rõ rằng: “Mỗi nhật đán triêu tu tước xỉ mộc, giai xỉ, quát thiệt, vụ linh như pháp, quán thấu thanh tịnh, phương hành kính lễ (每日旦朝須嚼齒木、揩齒、刮舌、務令如法、盥漱清淨、方行敬禮, mỗi ngày vào sáng sớm nên nhai cây xỉa răng, chùi răng, cạo lưỡi, làm việc như pháp, rửa tay súc miệng sạch sẽ, mới hành kính lễ).” Tại Ấn Độ, các nước phía Tây, khi mời người thế tục, trước tặng cho cây xỉa răng và nước hương, v.v., để chúc cho người đó được sức khỏe, thể hiện ý thỉnh cầu. Ngay như cung thỉnh chư Phật, Bồ Tát cũng dùng nhành dương chi và nước trong sạch, được gọi là Pháp Thỉnh Quán Âm (請觀音法) hay Pháp Dương Chi Tịnh Thủy (楊枝淨水法). Như trong Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林, Taishō Vol. 53, No. 2122) quyển 60, phần Thỉnh Quan Thế Âm Đại Thế Chí Bồ Tát Chú Pháp (請觀世音大勢至菩薩咒法), có câu: “Thỉnh thập phương Thất Phật Quan Âm Đại Thế Chí Bồ Tát đẳng, ngã kim dĩ cụ dương chi tịnh thủy, duy nguyện đại từ ai mẫn nhiếp thọ (請十方七佛觀音大勢至菩薩等、我今已具楊枝淨水、惟願大慈哀愍攝受, thỉnh mười phương bảy vị Phật, Quan Âm, Đại Thế Chí Bồ Tát, v.v., con nay đã đầy đủ nhành dương nước sạch, xin nguyện từ bi thương xót nhiếp thọ).” Pháp Uyển Châu Lâm quyển 61 còn cho biết rằng Phật Đồ Trừng (佛圖澄, 232-348), cao tăng Thiên Trúc, là người có đức độ lớn, Thạch Lặc (石勒, 274-333)—vua nhà Hậu Triệu, nghe tiếng bèn cho mời vào cung nội. Nhân con nhà vua bị bệnh chết, Phật Đồ Trừng lấy nhà dương thấm nước rưới lên, người ấy sống lại. Cho nên, người ta thường dùng nhành dương liễu và nước trong sạch để làm thanh tịnh các đàn tràng cầu nguyện cầu an, cầu siêu, Chẩn Tế Âm Linh Cô Hồn, v.v. Trong Từ Bi Dược Sư Bảo Sám (慈悲藥師寶懺, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1484) quyển 1 có bài tán Dương Chi Tịnh Thủy như sau: “Dương chi tịnh thủy, biến sái tam thiên, tánh không Bát Đức lợi nhân thiên, phước tuệ quảng tăng diên, diệt tội trừ khiên, hỏa diệm hóa hồng liên (楊枝淨水、遍洒三千、性空八德利人天、福慧廣增延、滅罪除愆、火燄化紅蓮, nhành dương nước tịnh, rưới khắp ba ngàn, tánh không Tám Đức lợi người trời, phước tuệ rộng tăng thêm, diệt tội oan khiên, lửa rực hóa hồng sen).” Về loại cây xỉa răng, Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) có nêu ra 4 loại có thể dùng làm cây xỉa răng là Bạch Dương (白楊), Thanh Dương (青楊), Xích Dương (赤楊) và Hoàng Dương (黃楊). Hơn nữa, không chỉ riêng loại Dương Liễu mới có thể làm cây xỉa răng, mà tất cả các loại cây đều có thể dùng được. Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu còn giới thiệu bài kệ Thủ Dương Chi (取楊枝, Cầm Nhành Dương Liễu [Tăm Xỉa Răng]) là: “Thủ chấp dương chi, đương nguyện chúng sanh, giai đắc diệu pháp, cứu cánh thanh tịnh (手執楊枝、當願眾生、皆得妙法、究竟清淨, tay cầm nhành dương, nguyện cho chúng sanh, đều được pháp mầu, rốt ráo thanh tịnh)”; và bài Tước Dương Chi (嚼楊枝, Xỉa Răng): “Tước dương chi thời, đương nguyện chúng sanh, kỳ tâm điều tịnh, phệ chư phiền não (嚼楊枝時、當願眾生、其心調淨、噬諸煩惱, khi đang xỉa răng, nguyện cho chúng sanh, tâm được trong sạch, hết các phiền não).” Tỳ Ni Chỉ Trì Hội Tập (毗尼止持會集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 39, No. 709) quyển 16 còn cho biết một số nguyên tắc khi xỉa răng như: “Bất đắc tại Phật tháp hạ tước dương chi (不得在佛塔下嚼楊枝, không được xỉa răng dưới tháp Phật)”, “bất đắc hướng Phật tháp tước dương chi (不得向佛塔嚼楊枝, không được hướng về tháp Phật mà xỉa răng)”, “bất đắc Phật tháp tứ biên tước dương chi (不得佛塔四邊嚼楊枝, không được xỉa răng ở bốn phía của tháp Phật)”, v.v.
Dương Kì Phương Hội (楊岐方會, Yōgi Hōe, 992-1049): vị tổ của Phái Dương Kì thuộc Tông Lâm Tế Trung Quốc, người Huyện Nghi Xuân (宜春縣, thuộc Tỉnh Giang Tây ngày nay), họ là Lãnh (冷). Hồi còn nhỏ, ông đi chơi ở Cửu Phong (九峰) về mà lòng quyến luyến khôn nguôi, nên cuối cùng thì xuống tóc xuất gia. Sau ông đi khắp các nơi tham học các bậc thiện tri thức, kế đến tham yết Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓) ở Nam Nguyên Sơn (南源山), rồi theo hầu thầy đến các vùng Đạo Ngô Sơn (道吾山), Thạch Sương Sơn (石霜山). Chính tại Thạch Sương Sơn, ông được đại ngộ và kế thừa dòng pháp của Sở Viên. Khi Sở Viên chuyển đến Hưng Hóa Tự (興化寺) ở Đàm Châu (潭州, thuộc Tỉnh Hồ Nam ngày nay), ông từ chối không theo thầy mà quay trở về Cửu Phong. Về sau, thể theo lời thỉnh cầu của chúng đạo tục, ông đến an trụ ở Dương Kì Sơn Phổ Thông Thiền Viện (楊岐山普通禪院) vùng Viên Châu (袁州), rồi đến năm thứ 6 (1046) niên hiệu Khánh Lịch (慶曆), ông lại chuyển về Vân Cái Sơn Hải Hội Tự (雲蓋山海會寺). Ông thị tịch vào năm đầu (1049) niên hiệu Hoàng Hựu (皇祐), hưởng thọ 58 tuổi. Dòng pháp từ của ông có Bạch Vân Thủ Đoan (白雲守端), Tỷ Bộ Tôn Cư Sĩ (比部孫居士), Thạch Sương Thủ Tôn (石霜守孫), Bảo Ninh Nhân Dũng (保寧仁勇), v.v. Đệ tử của ông là Nhân Dũng và Thủ Đoan đã biên tập bộ Viên Châu Dương Kì Hội Hòa Thượng Ngữ Lục (袁州楊岐會和尚語錄).
(楞伽師資記, Ryōgashijiki): 1 quyển, do Tịnh Giác (淨覺) ở Thái Hành Sơn (太行山) soạn, được thành lập vào khoảng năm thứ 4 (716) niên hiệu Khai Nguyên (開元) nhà Đường. Tác phẩm Đăng Sử Thiền Tông thuộc thời kỳ đầu của hệ Bắc Tông này nói lên truyền thống truyền thừa Kinh Lăng Già (s: Lankāvatāra-sūtra, 楞伽經) qua 8 đời, khởi đầu bằng Cầu Na Bạt Đà La (s: Guṇabhadra, 求那跋陀羅, 394-468)―người truyền dịch bộ kinh này―được xem như là đời thứ nhất; đời thứ 2 là Bồ Đề Đạt Ma (s: Bodhidharma, 菩提達磨[摩]) cho đến Huệ Khả (慧可), Tăng Xán (僧璨), Đạo Tín (道信), Hoằng Nhẫn (弘忍), đến đời thứ 7 có 3 vị là Thần Tú (神秀), Huyền Trách (玄賾), Huệ An (慧安) và đời thứ 8 gồm 4 người môn hạ của Thần Tú như Phổ Tịch (普寂), Kính Hiền (敬賢), Nghĩa Phước (義福), Huệ Phước (惠福). Đặc biệt, trong phần Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Pháp Môn (入道安心要方便法門) có dẫn dụng lời của Đạo Tín khá dài. Hơn nữa, Huyền Trách, đệ tử của Hoằng Nhẫn, cũng kế thừa qua cuốn Lăng Già Nhân Pháp Chí (楞伽人法志) và có trích dẫn lời của Đạo Tín. Bản Đôn Hoàng có các ký số S2054, S4272, P3294, P3436, P3537, P3703 và P4564. Bản của Đại Chánh Đại Tạng Kinh (大正大藏經, Taishō) căn cứ vào bản S2054 thiếu chữ thủ đô, nhưng khi các bản P3294, P4564 xuất hiện thì chữ thủ đô được bổ sung vào và những phần thiếu mất trong văn lời tựa cũng phục nguyên lại được. Bên cạnh đó, người ta còn phát hiện dịch bản tiếng Tây Tạng.
(蓮座): tòa sen. Như trong bài thơ Quán Phật Tích Tự (觀佛迹寺) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường có câu: “Liên tọa thần dung nghiễm, tùng nhai Thánh tích dư (蓮座神容儼、松崖聖迹餘, tòa sen dung tướng uy nghiêm, cây tùng vách núi cõi Thiền còn đây).” Hay trong thiền lâm sớ ngữ khảo chứng (禪林疏語考證, 卍 Xuzangjing Vol. 63, No. 1252) quyển 2, phần Hỏa Hậu Hoàn Nguyện (火後還愿), có đoạn: “Phục nguyện nguy nguy liên tọa hiện nguyệt minh thủy thượng chi quang, vĩnh vĩnh bồng cư tuyệt yên diệt hôi phi chi huyễn (伏願巍巍蓮座現月明水上之光。永永蓬居絕煙滅灰飛之幻, cúi mong nguy nga tòa sen hiện trăng sáng trên nước hào quang, mãi mãi an cư dứt khói tuyệt tro bay giả huyễn).”
(曼陀): tên một loài hoa, gọi đủ là Mạn Đà La (s: māndāra, māndārava, māndāraka, 曼陀羅), ý dịch là thiên diệu (天妙), duyệt ý (悅意), thích ý (適意), bạch (白). Nó còn được gọi là Mạn Đà Lặc Hoa (曼陀勒華), Mạn Na La Hoa (曼那羅華), Mạn Đà La Phạn Hoa (曼陀羅梵華), Mạn Đà La Phàm Hoa (曼陀羅帆華). Đây là một trong 4 loại hoa trời và là tên loài hoa trên thiên giới. Hoa có màu đỏ, rất đẹp làm cho người nhìn thấy sanh tâm vui mừng. Cây của nó giống như cây Ba Lợi Chất Đa (s: pārijāta, pārijātaka, pāriyātraka, p: pāricchattaka, 波利質多, tên loại cây trên cung trời Đao Lợi [s: Trāyastriṃśa, p: Tāvatiṃsa,忉利]). Tên khoa học của loài hoa này là Erythrina indica (Coral tree), sanh sản ở Ấn Độ, nở hoa vào mùa hè, đến khoảng tháng 6, 7 thì kết trái, lá rất sum sê. Bên cạnh đó, nó còn có tên khoa học khác là Calotropis gigantean, là loài thực vật thuộc Mã Lợi Cân (馬利筋), cũng được gọi là Mạn Đà La, thường dùng để dâng cúng cho thần Thấp Bà (s: Śiva, p: Siva, 濕婆). Tại Bồ Tát Đảnh Văn Thù Điện (菩薩頂文殊殿) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山), Tỉnh Sơn Tây (山西省), Trung Quốc có câu đối: “Bách đạo tuyền phi giản lưu công đức thủy, ngũ phong vân dũng thiên vũ Mạn Đà hoa (百道泉飛澗流功德水、五峰雲湧天雨曼陀花, trăm lối khe bay suối chảy nước công đức, năm núi mây tuôn trời mưa hoa Mạn Đà).” Trong Đại Bát Niết Bàn Kinh (s: Mahāparinirvāṇasūtra, 大般涅槃經, Taishō No. 374) có đoạn: “Thiện Kiến Thái Tử kiến dĩ, tức sanh ái tâm, hỷ tâm, kính tín chi tâm, vi thị sự cố nghiêm thiết chủng chủng cúng dường chi cụ nhi cúng dường chi; hựu phục bạch ngôn: 'Đại Sư thánh nhân, ngã kim dục kiến Mạn Đà La hoa.' Thời Điều Bà Đạt Đa tức tiện vãng chí Tam Thập Tam Thiên, tùng bỉ thiên nhân cầu tác chi (善見太子見已、卽生愛心、喜心、敬信之心、爲是事故嚴設種種供養之具而供養之、又復白言、大師聖人、我今欲見曼陀羅花、時調婆達多卽便徃至三十三天、從彼天人而求索之, Thái Tử Thiện Kiến thấy xong, tức sanh tâm yêu thích, tâm vui mừng, tâm kính tín, vì việc này nên trang nghiêm thiết bày các vật phẩm cúng dường để cúng dường; rồi lại thưa rằng: 'Thưa Đại Sư thánh nhân, con nay muốn thấy hoa Mạn Đà La.' Khi ấy Điều Bà Đạt Đa bèn qua đến cõi Trời Ba Mươi Ba, theo thiên nhân ở đó mà cầu xin hoa).” Hay trong Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sanh Đâu Suất Thiên Kinh (佛說觀彌勒菩薩上生兜率天經, Taishō No. 452) cũng có đoạn: “Bách thiên thiên tử tác thiên kỷ nhạc, trì thiên Mạn Đà La hoa, Ma Ha Mạn Đà La hoa, dĩ Tán Kì thượng, tán ngôn: 'Thiện tai ! Thiện tai ! Thiện nam tử, nhữ ư Diêm Phù Đề quảng tu phước nghiệp lai sanh thử xứ, thử xứ danh Đâu Suất Đà Thiên; kim thử chủ danh viết Di Lặc, nhữ đương quy y' (百千天子作天伎樂、持天曼陀羅花、摩訶曼陀羅華、以散其上、讚言、善哉善哉善男子、汝於閻浮提廣修福業來生此處、此處名兜率陀天、今此天主名曰彌勒、汝當歸依, trăm ngàn thiên tử tấu các kỷ nhạc trời, mang hoa trời Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La để rãi lên vị ấy, rồi tán thán rằng: 'Lành thay ! Lành thay ! Thiện nam tử, ngươi đã rộng tu phước nghiệp nơi Diêm Phù Đề mà sanh về cõi này; cõi này tên là Đâu Suất Đà Thiên; chủ nhân hiện tại tên là Di Lặc, ngươi nên quy y người').”
(玉樹): cây bằng ngọc, cây trắng như ngọc. Trần Thúc Bảo (陳叔寶, tại vị 583-589, Hoàng Đế cuối cùng của nhà Trần thời Nam Bắc Triều) có làm bài thơ Ngọc Thọ Hậu Đình Hoa (玉樹後庭花): “Lệ vũ phương lâm đối cao các, tân trang diễm chất bổn khuynh thành, ánh hộ ngưng kiều sạ bất tấn, xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh, yêu cơ thiểm tợ hoa hàm lộ, ngọc thọ lưu quang chiếu hậu đình (麗宇芳林對高閣、新粧艶質本傾城、映戸凝嬌乍不進、出帷含態笑相迎、妖姫臉似花含露、玉樹流光照後庭, nhà đẹp rừng thơm đối gác cao, tân trang tuyệt chất vốn nghiêng thành, cửa sáng mỹ miều thẹn chẳng bước, khỏi rèm thư thả đón cười duyên, xinh sao mắt tợ hoa ngậm móc, cây ngọc sáng quang chiếu sau vườn).” Có thuật ngữ “kiêm gia ỷ ngọc thọ (蒹葭倚玉樹, cỏ kiêm và cỏ lau nương tựa vào cây ngọc)” thường được dùng để ví dụ bên xấu bên đẹp, không thể nào so sánh được; từ đó nó có nghĩa là mượn sự vinh quang, phú quý, cao đẹp của người khác để thăng hoa bản thân mình. Thuật ngữ này vốn phát xuất từ Thế Thuyết Tân Ngữ (世說新語), phần Dung Chỉ (容止) của Lưu Nghĩa Khánh (劉義慶, 403-444) nhà Tống thời Nam Triều: “Ngụy Hoàng Đế sử hậu đệ Mao Tằng dữ Hạ Hầu Nguyên tinh tọa, thời nhân vị kiêm gia ỷ ngọc thọ (魏蝗帝使後弟毛曾與夏侯元並坐、時人謂蒹葭倚玉樹, Ngụy Hoàng Đế bảo em vợ là Mao Tằng và Hạ Hầu Nguyên cùng ngồi chung, người đương thời gọi đó là cỏ lau nương cây ngọc).” Câu “ngọc thọ phong trưởng, chi điều mậu thạnh thiên xuân (玉樹豐長、枝條茂盛千春)” có nghĩa là cây ngọc phát triển mạnh mẽ, nên các cành lá tươi tốt mãi mãi, có thể kéo dài đến cả ngàn năm.
(法華玄義, Hokkegengi): thường gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Hoa Kinh Huyền Nghĩa (妙法蓮華經玄義), gọi tắt là Huyền Nghĩa (玄義), 10 quyển, là một trong 3 bộ luận lớn của Thiên Thai Tông, do Thiên Thai Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) giảng thuật trong mùa an cư năm 594 tại Ngọc Tuyền Tự (玉泉寺), Kinh Châu (荆州) vào năm 593 (niên hiệu Khai Hoàng [開皇] thứ 13 của nhà Tùy); sau đó Chương An Quán Đảnh (章安灌頂) chấp bút chỉnh lý và thêm lời tựa cho bộ này. Từ 5 phương diện Thích Danh (釋名), Biện Thể (辨体), Minh Tông (明宗), Luận Dụng (論用) và Phán Giáo (判敎), bộ này nói lên đặc sắc của 5 phương diện này về đề Kinh Pháp Hoa. Đây được gọi là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa (五重玄義) và trở thành truyền thống của phương pháp giải thích Kinh Pháp Hoa trong Thiên Thai Tông. Luận thư này khái quát về chữ pháp (法) thông qua 3 pháp là Tâm (心), Phật (佛), Chúng Sanh (眾生); giải thích chữ diệu (妙) là Tương Đãi (相待), Tuyệt Đãi (絕待); lại giải thích thêm bằng Thập Diệu (十妙) của Tích Môn (迹門) và Bản Môn (本門). Có thể nói đây là thư tịch khái luận Phật Giáo, lấy giáo phán độc đáo của Thiên Thai để thống nhiếp toàn bộ Phật Giáo.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập